Feeds:
Bài viết
Bình luận

Archive for the ‘B. Ý KIẾN TỪ CÁC CHUYÊN GIA’ Category

THƯA CHỦ TỊCH NƯỚC:

ĐIỆN HẠT NHÂN KHÔNG THỂ TUYỆT ĐỐI AN TOÀN ĐƯỢC!

hay là
Huyền thoại điện hạt nhân an toàn tuyệt đối !
Ts Trần Văn Bình (Kiều bào CHLB Đức)
.
Trong chuyến Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang thị sát nơi xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1. Ông đã đến kiểm tra tình hình phát triển kinh tế xã hội tại huyện Bác Ái; Ông thăm và làm việc với đồng bào Chăm ở xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước và thôn Vĩnh Trường, xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam; Ông đã đi thị sát tiến độ thi công công trình đường ven biển Phú Thọ – Mũi Dinh và địa điểm dự kiến xây dựng Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1. Ông Sang đã phát biểu: “Mục tiêu dự án điện hạt nhân đặt ra là phải đảm bảo an toàn tuyệt đối, khi dự án hoàn thành sẽ mang lại lợi ích cho chính người dân địa phương và lợi ích chung của cả nước” – (theo báo chí trong nước)

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm địa điểm chuẩn bị xây dựng Nhà máy điện hạt nhân ở xã Phước Dinh, huyện Thuận Nam. Ảnh: TTXVN.

Xin thưa với ngài Chủ Tịch là chúng tôi có thể trả lời và khẳng định rằng: không bao giờ có được công nghệ điện hạt nhân an toàn tuyệt đối…”.

.
Thảm họa Tschernobyl và Fukushima:
.
Những bài học mà loài người đã phải trả giá quá đắt.
Nhìn lại hai thảm họa tang thương, một cái mới xảy ra trong năm vừa qua (2011), một cái đã hơn 26 năm (1986) rồi mà con người vẫn còn hoảng hốt, bàng hoàng:

Quang cảnh Chernobyl sau sự cố.

.

Thảm họa Tschernobyl 1986 đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề, gây thiệt hại hàng trăm tỷ US Dollars cho nền kinh tế nước Nga và thế giới trong hơn 2 thập kỷ qua. Belarus, ước lượng thiệt hại khoảng 235 tỷ USD. Hàng năm, Ukaina phải chi 5–7% ngân sách để giải quyết hậu quả Tschernobyl.
.
Thiệt hại về kinh tế là rất lớn, nhưng thiệt hại về con người thì không tính được. Hơn 5 triệu người sống ở ba nước Belarus, Nga, Ukraina được xếp loại bị nhiễm xạ, trong đó có 400.000 người sống trong vùng nhiễm xạ nặng. Trong năm 1986, 116.000 người đã phải di tản lập tức, khi thảm họa sảy ra, khỏi khu vực chung quanh nhà máy. Sau đó khoảng 220.000 người nữa phải di dời khỏi nơi ở cũ. Ba nước liên quan đã phải chi những khoản tiền lớn để giúp đỡ những người bị nạn hàng năm. Số tiền mà Belarus chi vì Tschernobyl trong thời gian từ 1991 đến 2003 vào khoảng 13 tỷ US Dollar. Khoảng 4.000 người đã bị chết oan vì thảm họa này. Nhưng theo số liệu mới nhất của tổ chức Hòa-Bình-Xanh (Green Peace), “những bằng chứng rõ ràng cho thấy đã có ít  nhất khoảng 200.000 người tại Belerus, Ukraina và Nga” chết trong thời gian từ 1990 đến 2004 do hậu quả của thảm họa Tschernobyl !!!
.
Thảm họa Fukushima-Daiichi, tháng 3.2011 xảy ra và vẫn còn tiếp diễn, nên còn sớm để mà đánh giá hết thiệt hại về người và tiền của. Nhưng những gì đã diễn ra, đã biết, cũng đủ để chúng ta phải bình tỉnh, suy nghĩ rất nghiêm túc.
.
TEPCO (Tokyo Electric Power Company, Tập đoàn Điện lực Tokyo) lãnh phần trách nhiệm chính của thảm họa này.
.
Prof. Dr. Michio Kaku của City University of New York, cho rằng nhà máy điện hạt nhân Fukushima-Daiichi là một quả bom nổ chậm. “Bây giờ chúng ta biết rằng 100% các thanh nhiên liệu trong cả 3 lò phản ứng đã bị nóng chảy và mức độ phát xạ có thể so sánh với Tschernobyl.”
.
Liên quan đến số phận người dân, con người mới là điều đáng nói !!!. Hơn 60.000 người phải bỏ nhà cửa ra đi, chưa biết ngày trở lại. Hàng trăm nghìn người bị ảnh hưởng về sức khỏe và kinh tế. Họ sẽ nhận được gì? Cái gì sẽ bù đắp nổi những mất mát về cuộc sống, về sinh mạng, về sức khỏe ??? Tác động di truyền sang bao thế hệ sau sẽ kéo dài đến bao lâu ???
.
Prof. Dr.-Ing. Hans-Josef Allelein, -thầy của người viết bài này- Giáo sư về công nghệ và an toàn của lò phản ứng hạt nhân tại trường Đại Học danh tiếng RWTH AACHEN (Tây Đức trước đây, CHLB Đức), đánh giá và nhận định rằng đất nước Nhật Bản sẽ phải đối mặt, chiến đấu với hậu quả của thảm họa Fukushima-Daiichi ít nhất là 30 năm nữa cho đến khi hoàn toàn kiếm soát được tình hình, và khu vực xung quanh nhà máy Fukushima-Daiichi sẽ bị ô nhiễm bởi đồng vị phóng xạ CAESIUM-137 ít nhất từ 200 đến 300 năm nữa.
.
Nhân đây chúng ta cũng rất cảm ơn các nhà lãnh đạo, bạn bè, người dân Nhật đã có quyết định “bất hợp tác” với chương trình xây dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 02 !
.
Nhất định chúng ta không chấp nhận điện hạt nhân, quyết định ấy là có cơ sở, dựa vào những kiến thức khoa học chính xác và khách quan, trên việc cân nhắc lợi hại một cách thận trọng, với ý thức tỉnh táo về nguy cơ không thể tránh khỏi của tai nạn NMĐ hạt nhân. Không thể ru ngủ người dân, cộng đồng, các dân tộc bằng những lời hứa hão huyền. Không thể vì quyền lợi trước mắt của một số người, nhóm lợi ích mà gây hại lâu dài cho đất nước, người dân.
.
Đất nước hình chữ S này là của toàn dân, trái đất này là của cả nhân loại, của không những cho thế hệ hôm nay và cả những thế hệ mai sau nữa! Những quyết định, những chính sách ảnh hưởng đến hàng triệu con người nên và phải được cân nhắc thận trọng và góp ý bởi hàng triệu khối óc, con tim người Việt. Không nên áp đặt, bất chấp quyền lựa chọn, quyết định của hàng triệu người khác, của một cộng đồng dân tộc dù ít người như dân tộc Chăm!
.
Biết bao hồi chuông cảnh báo, bức xúc, phân tích, suy tư của những nhà trí thức, khoa học -trong cũng như ngoài nước- về tính  an toàn điện hạt nhân  để đi đến kết luận và khẳng định rằng: “không bao giờ có được công nghệ điện hạt nhân tuyệt đối an toàn tai họa luôn  luôn rình rập các nhà máy điện hạt nhân“.
.
Có nên học bài học của chính phủ CHLB Đức đã làm chăng: Người lãnh đạo cao nhất nước (ví dụ như là Chủ Tịch nước) đứng ra thành lập một Ủy Ban Tư Vấn như Ủy Ban Đạo Đức (Ethikkommission) để xem xét, đánh giá các khía cạnh đạo đức và kỹ thuật của năng lượng hạt nhân, chuẩn bị một thỏa thuận xã hội để có quyết định về việc dừng khai triển và xây dựng năng lượng hạt nhân và đề xuất quá trình chuyển đổi sang các năng lượng tái tạo. Sau thời gian làm việc, Ủy Ban Đạo Đức sẽ trao cho lãnh đạo bản kiến nghị, trong đó đề xuất hướng giải quyết cho năng lượng hạt nhân trong vòng 10 hoặc 20 năm tới. Ủy Ban -với vị thế độc lập, công khai, trong sáng và minh bạch- sẽ đánh giá, phân tích, thẩm định những mặt hạn chế, thuận lợi hạt nhân, kể cả về không gian, thời gian và phạm vi xã hội, nhân văn; để có lời giải tối ưu cho việc có nên sử dụng điện hạt nhân hay không!!!.
.
Hãy đừng vì một “quyết tâm chính trị” hoặc vì duy ý chí mà làm một công việc, gây một lỗi lầm, một vết nhơ đề cho hàng chục thế hệ con cháu chúng ta sau này sẽ trách móc, nguyền rủa thế hệ chúng ta!!!
.
TVB
8/7/2012
(bản gốc của tác giả)
__________
.
nguồn: Blog Nguoi Lot Gach , 08/07/2012.

Read Full Post »

ĐIỆN HẠT NHÂN

VÀ NHỮNG CÂU HỎI ĐỂ NGỎ

__________

Ts. Nguyễn Quốc Anh

Tuần Việt Nam, 09/03/2009.

.

(TuanVietNam) – Điện hạt nhân thực sự rẻ hay đắt? Những bài toán về huy động vốn, mô hình sở hữu, hoạt động đã được tính toán ra sao? Và vấn đề an ninh và an toàn hạt nhân đã được cân nhắc đầy đủ? – Ts. Vật lý Nguyễn Quốc Anh nêu vấn đề.

LTS: Chủ trương đến năm 2020 xây dựng một số nhà máy điện hạt nhân đang trong quá trình bàn thảo, chờ Quốc hội phê duyệt. Đây là vấn đề lớn, cần sự cẩn trọng đánh giá, thẩm định mọi khía cạnh trước khi đi đến quyết định cuối cùng.

Ngày 12/3 Hội đồng thẩm định nhà nước về nhà máy điện hạt nhân sẽ họp. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam giới thiệu loạt bài viết của Ts. Vật lý Nguyễn Quốc Anh.

– – –

Bài 1: Điện hạt nhân và những câu hỏi để ngỏ

.

Điện hạt nhân: Đắt hay rẻ?

Theo Nghị quyết 66/2006/QH11, nhà máy điện hạt nhân là dự án công trình trọng điểm quốc gia phải trình Quốc hội phê duyệt. Đến nay, tính hiệu quả kinh tế và bài toán an ninh, bao gồm cả an toàn sản xuất vẫn còn nhiều vấn đề cần xem kĩ.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, về phương diện kinh tế, điện hạt nhân không rẻ so với các nhà máy nhiệt điện (chạy bằng than, khí, dầu). Đối với những nước có ngành điện hạt nhân phát triển, số lò hạt nhân lớn và đã được khai thác nhiều năm nên đã được khấu hao một phần, hệ thống hạ tầng kỹ thuật và nhân lực đã được chuẩn bị tốt, giá điện hạt nhân có rẻ hơn các nước khác, nhưng cũng cao hơn giá điện chạy bằng than hay khí.

Ở châu Âu, giá thành 1 kWh điện hạt nhân hiện nay khoảng 5 cents USD (tương đương 850 VNĐ); ở Hoa Kỳ – khoảng 7 cents USD (1200 VNĐ) ; ở Nhật – khoảng 6 yên Nhật (1200 VNĐ). Đây là giá bán tại nhà máy, chưa phải là giá kinh doanh bán tới người tiêu dùng điện.

Nhà máy điện hạt nhân ở Hàn Quốc. Ảnh: evn.gov.vn.

Có lẽ vì lý do hiệu quả kinh tế và lý do an toàn mà các nước có nền công nghiệp điện hạt nhân lớn nhất đang có xu hướng dừng lại hoặc thoát ra, như Hoa Kỳ suốt từ năm 1978 đến nay không xây mới một lò nào; nhiều nước Tây Âu đang chuẩn bị rút lui có trật tự (Thụy Điển, Bỉ, Đức …) hoặc không hưởng ứng điện hạt nhân nữa (Anh, Ý, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha…).

Chỉ có 12 nước, phần lớn của châu Á, đang xây mới 32 lò hạt nhân. Vì sao có xu hướng này là điều chúng ta cần suy nghĩ, tìm hiểu để đi đến quyết định về điện hạt nhân ở Việt Nam.

Đối với các nước mới bắt đầu xây dựng điện hạt nhân như Việt Nam, giá thành sẽ cao hơn nhiều lần do phải tính đến các chi phí cho xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ban đầu, cho đào tạo nguồn nhân lực và cho việc thuê chuyên gia, tư vấn nước ngoài.

Bắt đầu từ con số không ở mọi hạ tầng cơ sở kỹ thuật và nhân lực cho điện hạt nhân, chủ đầu tư nhà máy điện hạt nhân của Việt Nam cần phải làm rõ, với nguồn vốn đó, dự án đầu tư sẽ đạt được đến mức nào? Cụ thể, đó là mức đầu tư để xây dựng, đưa nhà máy thuộc thế hệ II vào vận hành và bảo đảm nguồn nhiên liệu cho nhà máy hoạt động trong bao lâu?

Mức đầu tư đó có tính đến chi phí cho việc xử lý và lưu giữ chất thải hạt nhân, giải quyết môi trường, xây dựng và duy trì sự sẵn sàng hoạt động của hệ thống ứng phó sự cố, bảo hiểm an toàn, tháo dỡ nhà máy sau khi hết hạn sử dụng hay không v.v.?

Riêng chi phí tháo dỡ nhà máy điện hạt nhân là rất lớn. Thí dụ, 1 lò hạt nhân đầu tư hết 3 tỷ USD thì phải chuẩn bị khoảng 400-450 triệu USD cho việc tháo dỡ sau khi lò hết hạn sử dụng.

Việc tháo dỡ lại hết sức phức tạp và nguy hiểm vì chất phóng xạ, sau khi nhà máy thôi vận hành, phải đợi từ 25 đến 50 năm (tức là làm một nhà máy điện hạt nhân tức là đất nước bị kẹt gần một thế kỷ).

Chi phí tháo dỡ chiếm khoảng 15% kinh phí đầu tư và thường ít được các chủ đầu tư đưa vào dự toán khi xây dựng, vì phải 40-50 năm sau mới phải làm. Tuy vậy, để tính hiệu quả kinh tế của điện hạt nhân thì cả những chi phí loại này cũng phải được tính đến để hạch toán.

Với tất cả các chi phí đã được tính đủ, nguồn vốn đầu tư cụ thể sẽ được thu xếp như thế nào? Phương án kinh doanh, giá bán điện được tính cụ thể thế nào, có được xã hội chấp nhận hay không? Khả năng thu hồi vốn ra sao? Có thể khẳng định rằng, nếu tính đủ các chi phí liên quan thì giá thành điện hạt nhân ở Việt Nam sẽ không rẻ.

Ngoài ra, khi quyết định xây dựng điện hạt nhân, nếu để xảy ra sự cố hạt nhân gây ra nhiễm phóng xạ cho môi trường thì hậu quả nặng nề còn tác động đến nhiều ngành kinh tế khác của đất nước như du lịch, xuất khẩu nông sản, thủy hải sản.

.

Bài toán về an ninh và an toàn hạt nhân

Nhà máy điện hạt nhân, với những đặc thù và tính chất đặc biệt sẽ giữ vị trí nào trong quy hoạch phát triển điện của Việt Nam? Ảnh: Dalat.gov.vn

An ninh và an toàn hạt nhân vẫn là vấn đề lớn cần xem xét cẩn thận. Do đặc thù riêng biệt của điện hạt nhân, ràng buộc quốc tế đối với những nước tham gia cộng đồng sản xuất điện hạt nhân rất lớn.

Do tính chất nhạy cảm của chương trình điện hạt nhân, quyết định xây dựng nhà máy điện hạt nhân tức là chấp nhận sự giám sát và kiểm soát quốc tế trong suốt quá trình xây dựng, vận hành, xử lý nhiên liệu, lưu giữ chất thải và tháo gỡ; trong việc bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn, sẵn sàng ứng phó sự cố, bảo hiểm v.v.

Nếu làm điện hạt nhân, chúng ta sẽ phải phụ thuộc vào nước ngoài về thiết bị, phụ tùng, nhiên liệu, xử lý nhiên liệu đã qua sử dụng và có thể cả đội ngũ chuyên gia, nhân viên kỹ thuật.

Riêng về nguyên liệu hạt nhân uranium, bản thân Việt Nam không có sẵn, buộc phải nhập từ bên ngoài. Trong khi đó, theo một nghiên cứu được công bố trữ lượng Uranium trên thế giới hiện nay vào khoảng 15 triệu tấn, chỉ đủ để cung cấp cho khoảng 440 lò đang vận hành trong khoảng 60 năm. Thực tế trữ lượng có thể khai thác còn có thể ít hơn. Vì vậy, nếu nhiều nước cùng muốn phát triển điện hạt nhân và số lò tăng lên, thì có thể nhu cầu Uranium sẽ tăng vọt, giá thành sẽ cao lên nhiều lần và cuộc khủng hoảng Uranium nếu xảy ra sẽ trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng dầu mỏ hiện nay.

Nếu không có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, làm cẩn thận, vấn đề bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia khi thực thi các cam kết quốc tế, bảo đảm an toàn cho người dân, tránh cho đất nước khỏi rơi vào tình huống khó xử, bị cô lập quốc tế liên quan đến vấn đề hạt nhân sẽ là một câu hỏi lớn.

.

Mô hình sở hữu?

Khi đã cân nhắc cẩn thận, chuẩn bị kĩ lưỡng, chúng ta cũng cần giải đáp nhiều vấn đề khác.

Trước hết, nhà máy điện hạt nhân, với những đặc thù và tính chất đặc biệt sẽ giữ vị trí nào trong quy hoạch phát triển điện của Việt Nam? Sẽ là doanh nghiệp 100% của Nhà nước, hay sẽ là doanh nghiệp cổ phần (trong đó nhà nước nắm một tỷ lệ nhất định), hay sẽ là doanh nghiệp cổ phần hoàn toàn của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, hay sẽ là doanh nghiệp đầu tư nước ngoài? Câu hỏi này cần được giải đáp, vì chỉ khi rõ chủ sở hữu mới có thể quyết định chính sách đúng đắn cho việc đầu tư xây dựng và quản lý nhà máy điện hạt nhân.

Theo phương án dự án nhà máy điện hạt nhân đang chuẩn bị trình Quốc hội xem xét phê duyệt, chủ đầu tư dự án là Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN). Như vậy, tại thời điểm hiện tại, chủ đầu tư là một tập đoàn kinh tế của Nhà nước, nhưng trong một vài năm tới tập đoàn này sẽ phải được cổ phần hóa theo lộ trình. Khi xây dựng dự án, chủ đầu tư cần trả lời câu hỏi: nhà máy điện hạt nhân sắp xây dựng sẽ thuộc mô hình sở hữu nào?

Nếu là doanh nghiệp nhà nước thì phải tổ chức quản lý thế nào để phù hợp với chính sách năng lượng đang triển khai và khả năng bố trí ngân sách của Nhà nước cho quy mô dự kiến của nhà máy điện hạt nhân có khả thi hay không?

Còn nếu là doanh nghiệp cổ phần thì là doanh nghiệp cổ phần với tỷ lệ góp vốn của Nhà nước là bao nhiêu, tỷ lệ góp vốn của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước là bao nhiêu?

Nếu là doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thì chính sách cụ thể sẽ như thế nào? Khả năng huy động vốn cho việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đối với từng phương án cụ thể như thế nào? Câu hỏi này chưa được đặt ra và giải đáp trong Báo cáo đầu tư.

.

Bài toán vốn

Theo kinh nghiệm quốc tế, tùy theo mức độ đầu tư, công nghệ lựa chọn, yêu cầu về an toàn, an ninh và khả năng nội tại của quốc gia (về nguồn nhân lực và mức độ sẵn sàng cơ sở kỹ thuật nội địa cho điện hạt nhân) v.v. mà suất đầu tư cho 1 kW điện hạt nhân tại thời điểm hiện tại dao động trong khoảng từ 3000 đến 4000 USD (và có thể còn cao hơn). Như vậy, để đầu tư 1 tổ máy công suất 1000 MW cần từ 3 tỷ đến 4 tỷ USD.

Theo phương án và quy mô mà chủ đầu tư đề xuất xây dựng hai nhà máy Ninh Thuận 1 và Ninh Thuận 2 với 4 tổ máy loại 1000 MW vào năm 2020, sơ bộ chúng ta cần khoảng 15,387 tỷ USD, tương đương 253.727 tỷ đồng (theo tỷ giá 1 USD= 16.490 VNĐ).

Theo tỷ giá tháng 3/2009 (1 USD=17.500 VNĐ) thì tổng vốn đầu tư đã là khoảng 269.272 tỷ đồng. Nói một cách khác, nếu Quốc hội đồng ý phê duyệt dự án do chủ đầu tư đề xuất vào năm 2009 và bắt đầu triển khai từ năm 2010, thì từ năm 2010 đến năm 2020, riêng cho dự án nhà máy điện hạt nhân mỗi năm phải chuẩn bị nguồn vốn bình quân khoảng 25.000 tỷ đồng (chưa tính đến trượt giá về đơn giá suất đầu tư và tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ do thời gian triển khai dự án kéo dài).

Theo đề xuất của chủ đầu tư, 25% nguồn vốn đó là vốn tự có của chủ đầu tư, 75% số còn lại là vốn vay thương mại. Khả năng vốn tự có của EVN có đáp ứng được không? khả năng vay thương mại có hiện thực không đều cần được thẩm định kỹ vì chưa thấy nói rõ trong Báo cáo đầu tư.

Mô hình nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận. Ảnh: evn.gov.vn.

Đó là chưa tính đến nguồn vốn cần cho các dự án điện khác đã được phê duyệt mà hiện nay EVN cũng đang gặp rất nhiều khó khăn trong thu xếp vốn.

Trong điều kiện suy thoái kinh tế toàn cầu đang diễn ra và sự suy giảm phát triển kinh tế ở nước ta trong một vài năm tới ngày càng rõ nét thì khả năng huy động vốn như vậy liệu có khả thi?

Nhà nước hoặc các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh kế ngoài nhà nước, nhà đầu tư nước ngoài có thể góp vốn cho nhà máy điện hạt nhân theo quy mô và lộ trình dự kiến xây dựng?

Nếu không thể thu xếp đủ vốn theo tiến độ thì việc quyết định phê duyệt dự án cần phải cân nhắc kỹ từ thời điểm thực hiện, quy mô của dự án để tránh tình trạng “quy hoạch treo” và sẽ làm phát sinh tăng vốn đầu tư lên nhiều lần so với dự toán ban đầu.

Chúng ta cũng đã có bài học về việc không thu xếp được vốn, để dự án kéo dài làm tăng vốn đầu tư lên nhiều lần mà điển hình là dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất.

.

Mâu thuẫn với đề án tái cơ cấu?

Ngoài ra, mới đây Bộ Công thương đã xây dựng đề án thiết kế tổng thể thị trường điện cạnh tranh và tái cơ cấu ngành điện trình Thủ tướng Chính phủ xem xét phê duyệt. Đề án này đưa ra lộ trình hình thành thị trường điện, giai đoạn 2009 – 2014 là thời gian thị trường phát điện cạnh tranh hoàn chỉnh.

Để thực hiện được bước đi này, giới chuyên gia cho rằng, các nhà máy điện thuộc EVN phải tách ra thành các đơn vị phát điện độc lập, không có chung lợi ích kinh tế với người mua duy nhất (hiện vẫn là EVN), đồng thời là đơn vị truyền tải và đơn vị điều hành giao dịch thị trường điện.

Ngoài ra, công suất lắp đặt của từng đơn vị phát điện này cũng không được vượt quá 25% công suất lắp đặt của toàn hệ thống.

Hiện tại, công suất lắp đặt của toàn hệ thống vào khoảng 15.000 MW và phần các nhà máy do EVN nắm giữ 100% vốn hay có cổ phần chi phối, hiện chiếm tỷ trọng hơn 60%.

Việc giao thêm 2 nhà máy điện hạt nhân với tổng công suất 4.000 MW cho EVN sẽ càng làm tăng tỷ trọng công suất phát điện do EVN nắm giữ trong toàn hệ thống liệu có phù hợp với đề án.

  • Ts. Nguyễn Quốc Anh

__________

nguồn: TuanVietNam.net, (09/03/2009)

http://tuanvietnam.net/dien-hat-nhan-va-nhung-cau-hoi-de-ngo

Read Full Post »

RỦI RO ĐÀNG SAU NHỮNG NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN

__________

 

Ts. Nguyễn Quốc Anh

Tuần Việt Nam, 09/03/2009.

.

(TuanVietNam)- Khủng hoảng điện hạt nhân kéo dài gần 30 năm qua chủ yếu do chưa giải quyết được vấn đề an toàn trong thiết kế, vận hành, xử lý nhiên liệu hạt nhân và lưu giữ chất thải phóng xạ. Là nước đi sau, nếu Việt Nam quyết định triển khai dự án nhà máy điện hạt nhân, thì vấn đề an toàn phải được đặt lên vị trí ưu tiên số một.


LTS: Chủ trương đến năm 2020 xây dựng một số nhà máy điện hạt nhân đang trong quá trình bàn thảo, chờ Quốc hội phê duyệt. Đây là vấn đề lớn, cần sự cẩn trọng đánh giá, thẩm định mọi khía cạnh trước khi đi đến quyết định cuối cùng.

Ngày 12/3 Hội đồng thẩm định nhà nước về nhà máy điện hạt nhân sẽ họp. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam giới thiệu loạt bài viết của Ts. Vật lý Nguyễn Quốc Anh.

.

Thế giới và những sự cố trong vận hành nhà máy điện hạt nhân

Các nước xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của mình là Hoa Kỳ năm 1954, sau đó ở Liên xô cũ (1954), Anh (1956), Pháp (1956), Đức ( 1961), Canada (1962), Bỉ (1962) v.v. Cho đến nay, có khoảng gần 40 nước sản xuất điện hạt nhân với tổng số khoảng 440 lò, trong đó các nước có số lò vận hành lớn là Hoa Kỳ với 103 lò, Pháp – 59 lò, Nhật – 53 lò…

Lò Three Mile Island (Mỹ)

Sự cố lớn đầu tiên xảy ra ngày 28/3/1979 ở lò Three Mile Island (Hoa Kỳ), tim lò (công nghệ PWR – 900 MW) bị thiệt hại, nhiệt độ lên quá 1800oC làm phát tán phóng xạ, nguyên nhân chủ yếu do lỗi của thiết bị.

Thảm họa hạt nhân lớn nhất xảy ra tại lò Chernobyl số 4 (công nghệ RBMK – 1000 MW) ở Ucraina (Liên xô cũ) ngày 26/4/1986, bị nổ hơi, bay mất nóc và nhà máy bị cháy lớn làm phát tán phóng xạ ra ngoài, lan ra nhiều vùng ở Nga, các nước Bắc Âu, miền nam nước Pháp và một số nước khác làm hàng trăm nghìn người bị chết, mang bệnh, tàn tật..

Nguyên nhân do cả lỗi thiết kế thiếu bảo đảm, thể tích giam hãm quá nhỏ (coi như không có nhà bảo vệ) và cả do lỗi của công nhân vận hành không theo đúng các hướng dẫn.

Hơn mười năm gần đây, Nhật Bản đã giữ kỷ lục thế giới về các tai nạn điện hạt nhân. Đó là những sự cố vỡ một đoạn ống của lò số 2 nhà máy Mihama, làm thoát ra 55 tấn nước nhiễm phóng xạ (năm 1991); sự cố lò notron nhanh Monju (năm 1995) khiến phương hướng năng lượng sống còn, nhưng rất tốn kém này của nước Nhật phải bị đình chỉ.

Lò Chernobyl số 4 (Ukraina)

Tai nạn xảy ra ở nhà máy xử lý nhiên liệu Tokaimura (năm 1999) do những sai sót hết sức ngớ ngẩn đã làm chết hai kỹ thuật viên, 600 người bị chiếu xạ, 320.000 người dân địa phương được yêu cầu không ra khỏi nhà.

Công ty TEPCO (Tokyo Electric Power Co), lớn nhất của Nhật, đã bắt buộc phải tạm ngưng hoạt động một loạt 17 lò vì có sự dối trá trong các tài liệu về an toàn (năm 2003); một sự cố lớn (nổ đường ống đường kính 60 cm, chiều dày 10 mm) đã xảy ra tại lò PWR số 3 (825 MW) của nhà máy Mihama, tỉnh Fukui làm 5 người thiệt mạng và 6 người bị thương (năm 2004) v.v.

Sự cố hạt nhân cũng đã xảy ra ở nhà máy điện hạt nhân của nhiều nước khác. Gần đây, sau vụ khủng bố 11/9 ở Hoa Kỳ năm 2001, nguy cơ xảy ra sự cố điện hạt nhân còn do nguyên nhân khủng bố, phá hoại.

Theo thống kê nguyên nhân gây ra các sự cố, thảm họa hạt nhân, chỉ 20% thuần túy do lỗi kỹ thuật của thiết bị, 65% là lỗi của con người, 15% là lỗi kết hợp giữa sai hỏng của thiết bị và vận hành của con người.

.

Nguy cơ từ chất thải phóng xạ

 Sự cố hạt nhân không chỉ xảy ra đối với nhà máy điện hạt nhân khi vận hành, mà còn tiềm ẩn nguy cơ khi vận chuyển nhiên liệu hạt nhân; đặc biệt là ở khâu xử lý chất thải hạt nhân (nhiên liệu đã qua sử dụng), có thể gây ô nhiễm môi trường.

Mỗi năm, 1 lò PWR-1000 MW (với nhiên liệu 238U + 3,5% 235U) có thể sản xuất 6-7 tỷ kWh và sinh ra khoảng 21 tấn nhiên liệu phóng xạ, gồm có 20 tấn U (0,9% 235U), 330 kg Pu (là chất dùng trong quân đội để sản xuất bom nguyên tử), 21 kg Actinides nhỏ và 1183 kg sản phẩm phân rã (có 80 kg hoạt tính cao với đời sống dài).

Khác với việc xử lý đa số các chất thải công nghiệp khác, chất thải phóng xạ có ảnh hưởng rất nguy hiểm đến an toàn của con người, nhưng cho đến nay, khoa học vẫn chưa tìm ra lối thoát cho việc xử lý chất thải phóng xạ. Quản lý an toàn chất thải phóng xạ phải được tiến hành liên tục từ khâu phát sinh ra chất phóng xạ đến xử lý, cất giữ tạm thời và chôn thải.

Đối với thanh nhiên liệu đã cháy, phải được lưu giữ tạm thời ngay tại nhà máy trong khoảng thời gian từ 30-50 năm, sau đó sẽ được tái chế hoặc tái xuất trở lại nước đã cung cấp thanh nhiên liệu để họ tái chế hay chôn cất vĩnh viễn.

Đối với các chất thải phát sinh trong quá trình vận hành của nhà máy, cần phải có giải pháp xử lý an toàn. Giải pháp tạm thời và rất tốn kém hiện đang áp dụng trên thế giới đối với chất thải phóng xạ hoạt độ cao là thủy tinh hóa rác thải, rồi tạm chôn sâu vào lòng đất có đá hoa cương, đất sét hoặc các mỏ muối không thấm nước.

Đối với chất thải hoạt độ thấp và trung bình, có thể chôn nông (từ 0-20m) trong lòng đất, sau đó phủ bằng các lớp đất sét hoặc bê tông hóa bằng những vật liệu không thấm nước. Cho đến nay, khoa học vẫn chưa tìm ra lối thoát cho việc xử lý chất thải phóng xạ

Trước các nguy cơ sự cố như trên, điện hạt nhân đã vấp phải sự phản đối ở nhiều nước từ những năm 80 của thế kỷ trước (đặc biệt các nước châu Âu như Thụy Điển, Đức, Bỉ, Thụy Sĩ đã quyết định sẽ đóng cửa các lò hạt nhân).

Riêng Đức là nước có sản lượng điện hạt nhân đứng thứ 4 thế giới với 19 lò, tổng sản lượng năm 2001 là 171,2 tỷ KWh, chiếm 29,6% tổng sản lượng điện quốc gia. Sau cuộc trưng cầu dân ý đầu những năm 2000, chính phủ Đức đã quyết định sẽ đóng cửa các nhà máy điện hạt nhân đến năm 2020 và cấm gửi nhiên liệu hạt nhân ra nước ngoài để xử lý, chấp nhận hy sinh hàng trăm tỷ USD đã đầu tư cho điện hạt nhân, chuyển hướng nghiên cứu phát triển các nguồn năng lượng tái tạo khác và đã thu được kết quả về phát triển phong điện với công suất hiện có trên 15000 MW.

Người dân khu vực bị nhiễm xạ lò Chernobyl số 4 đã phải di rời đi nơi khác. Nhà thờ đứng trơ trọi, các công trình xây dựng khác đều bị san bằng. Ảnh: Welt.

.

Quy chuẩn kỹ thuật cho an toàn hạt nhân

Giải quyết vấn đề an toàn hạt nhân đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình, tiêu chuẩn kỹ thuật đặc biệt theo các chuẩn mực quốc tế và của mỗi quốc gia. Thí dụ, chỉ riêng hướng dẫn về lựa chọn địa điểm và an toàn thiết kế nhà máy điện hạt nhân, IAEA đã ban hành 36 văn bản.

Các quốc gia có chương trình hạt nhân lớn đều có hệ tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn của nhà máy điện hạt nhân, như của Hoa Kỳ hệ này có 454 tiêu chuẩn, trong đó có 18 tiêu chuẩn liên quan đến lựa chọn địa điểm và 210 tiêu chuẩn liên quan đến thiết kế và an toàn nhà máy điện hạt nhân.

Riêng về đánh giá địa điểm, IAEA đã ban hành 7 tiêu chuẩn: đánh giá địa điểm cho các cơ sở hạt nhân; những sự kiện từ bên ngoài do con người gây ra trong việc đánh giá địa điểm nhà máy điện hạt nhân; sự phát tán phóng xạ trong không khí và nước và vấn đề phân bố dân cư trong việc lựa chọn địa điểm nhà máy điện hạt nhân; đánh giá các nguy cơ động đất đối với nhà máy điện hạt nhân; các sự kiện khí tượng học trong đánh giá địa điểm đối với nhà máy điện hạt nhân; nguy cơ lụt lội đối với nhà máy điện hạt nhân gần biển hoặc gần sông; các khía cạnh địa kỹ thuật trong đánh giá và thiết lập địa điểm cho nhà máy điện hạt nhân.

Bộ tiêu chuẩn này của IAEA chúng ta mới tiếp cận gần đây, trong khi chủ đầu tư báo cáo việc lựa chọn và đánh giá địa điểm đã tiến hành từ nhiều năm trước; do đó rất nhiều tiêu chuẩn của IAEA có thể chưa được xem xét, áp dụng trong đánh giá, lựa chọn đối với địa điểm dự kiến xây dựng tại Ninh Thuận.

Việc bảo đảm an toàn cho nhà máy điện hạt nhân phải được thẩm định kỹ lưỡng ở tất cả các công việc, bắt đầu từ lựa chọn địa điểm.

Việc bảo đảm an toàn cho nhà máy điện hạt nhân phải được thẩm định kỹ lưỡng ở tất cả các công việc, từ quyết định chủ trương đầu tư, lựa chọn địa điểm, lựa chọn công nghệ, quản lý xây dựng, lắp đặt thiết bị, vận hành, quản lý nhiên liệu hạt nhân và nhiên liệu đã qua sử dụng, xử lý chất thải và tháo dỡ nhà máy sau khi hết hạn sử dụng.

Trước đây, Philippines tuy đã bỏ ra 2,3 tỉ USD để xây dựng nhà máy điện hạt nhân Bataan 621 MW năm 1976, gần xong năm 1984 thì phải đóng cửa vì sợ động đất và vì địa điểm không tốt, ở không xa núi lửa Pinatubo, nhưng từ đó đến nay vẫn phải chi phí bảo dưỡng hàng năm, rất tốn kém.

Sau cuộc động đất lớn (6,8 độ Richter) ngày 16/7/2007, do tâm động đất ở khá gần nhà máy điện hạt nhân lớn nhất của Nhật và thế giới Kashiwazaki-Kariwa (7 lò với công suất tổng cộng là 8212 MW) của tập đoàn TEPCO. Chính phủ Nhật đã cấm vận hành trong vòng nhà máy này từ đó đến nay.

Thiệt hại do phải ngừng hoạt động rất lớn, chỉ riêng năm tài chính 2007 là 603,5 tỷ yên (khoảng 5,62 tỷ USD), trong đó 440 tỷ yên chi cho mua nguyên liệu khác phát điện bù công suất trên 8000 MW của nhà máy, 122 tỷ yên cho công tác thanh tra, 25 tỷ yên cho sửa chữa và 2 tỷ yên cho khảo sát địa chất địa điểm nhà máy.

Rất tiếc rằng, ngoài Luật Năng lượng nguyên tử với những quy định khung, chúng ta chưa có bất cứ một văn bản quy phạm pháp luật nào để điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực điện hạt nhân. Thậm chí chúng ta còn chưa có bất cứ một tiêu chuẩn nào về an toàn hạt nhân đối với tất cả các khâu cần thẩm định để đi đến quyết định chủ trương đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân.

Chưa có tiêu chí, tiêu chuẩn để thẩm định địa điểm, liệu quyết định sẽ xây dựng 4-8 tổ máy ở hai địa điểm cách nhau chỉ có 40 km ở Ninh Thuận có chính xác?

Hiện ở Ninh Thuận vẫn chưa có trạm quan trắc khí tượng nên không có số liệu chính xác về khí tượng, các số liệu đánh giá chỉ là mô phỏng giả định.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nếu xảy ra sự cố hạt nhân đồng thời với sự cố thiên tai vào thời gian từ tháng 10 đến tháng 3 thì thì hiểm họa sẽ rất lớn, thí dụ mây phóng xạ sẽ di chuyển theo hướng qua Tp. Hồ Chí Minh đến các tỉnh Nam Bộ, hoặc có những khoảng thời gian trong năm làm cho phóng xạ không phát tán đi mà lắng đọng lại ở khu vực Phan Rang.

Hơn nữa, việc chủ đầu tư chọn địa điểm ở Ninh Thuận trước khi Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân có phải là đã thực hiện “quy trình ngược”, đặt cơ quan có thẩm quyền buộc phải quyết định “sự đã rồi”?

Và không rõ Hội đồng thẩm định nhà nước dựa trên căn cứ, tiêu chuẩn nào để thẩm định, đánh giá an toàn đối với Báo cáo đầu tư dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận?

Nếu dự án này được trình Quốc hội xem xét phê duyệt chủ trương đầu tư (dự kiến tại kỳ họp Quốc hội tháng 5/2009 tới) thì các đại biểu Quốc hội sẽ có an tâm khi bỏ phiếu quyết định?

.

Lựa chọn công nghệ

Sau khi có chủ trương đầu tư và địa điểm xây dựng nhà máy điện hạt nhân được lựa chọn, yếu tố quan trọng đối với an toàn nhà máy điện hạt nhân là lựa chọn công nghệ. Từ khi có điện hạt nhân, đã có 3 thế hệ lò:

Lò thế hệ Ι gồm có những lò như Shippingport (Hoa Kỳ), Magnox (Anh) hay UNGG (Pháp). Phần lớn các lò này đã hoặc đang được tháo dỡ.

Lò thế hệ II gồm các kiểu lò PWR (Pressurized Water Reactor – lò nước áp lực) và BWR (Boiled Water Reactor – lò nước sôi) của châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật; VVER và RBMK (lò năng lượng nước của Nga); Candu nước nặng (của Canada, Ấn Độ) v.v.

Các lò chuyển tiếp thế hệ III với nước áp lực, như EPR (European Pressurized Reactor – lò nước áp lực châu Âu) 1600MW và với nước sôi, như SWR 1000-1250 MW (có thiết bị an toàn thụ động) được Pháp và Đức chung sức nghiên cứu hơn 15 năm nay, hoặc lò AP 1000 của Hoa Kỳ chế tạo (nguyên tắc an toàn thụ động) sẽ có hiệu suất và mức độ an toàn cao. Các lò thế hệ III, tuy mới ra đời, nhưng đã được nhiều chuyên gia xem như đã lỗi thời vì cùng một kỹ thuật với các lò PWR. Tuy nhiên, giá thành của các loại lò này thường cao hơn các loại thế hệ II khoảng 1,5 đến 2 lần (đơn giá cho 1 kW công suất khoảng 6000 USD).

Phần Lan là nước duy nhất ở EU đang xây dựng một nhà máy điện hạt nhân thế hệ III EPR, mua của Pháp với giá ban đầu dự toán 2,5 tỷ Euro, sau vì lý do an toàn phải chấp nhận tăng giá lên 4 tỷ Euro và chậm tiến độ 3 năm.

Ngoài ra, hiện chỉ có Điện lực Pháp có dự kiến đặt mua một số lò thế hệ III EPR để thay thế các lò hết thời hạn vận hành vào khoảng các năm 2017-2022. Lò AP 1000 chỉ mới bắt đầu được cấp phép năm 2005, hiện cũng chưa có nước nào đưa vào vận hành.

Lò thế hệ IV đang được 10 nước chung sức nghiên cứu trong khuôn khổ Forum International Generation (FIG), do Hoa Kỳ đề xướng từ năm 2000 với 6 kiểu lò (3 lò neutron nhanh, 3 lò nhiệt) đã được lựa chọn.

Các thế hệ công nghệ điện hạt nhân. Ảnh: Thư viện vật lý.

Các lò tương lai này có khuynh hướng tiến tới chu kỳ kín, nghĩa là các lò phải có khả năng đốt cháy phần lớn chất thải (lò nhanh) để đáp ứng 4 tiêu chuẩn chính là tiết kiệm tài nguyên; tiết kiệm về chu kỳ nhiên liệu; hạn chế chất thải phóng xạ; hạn chế sự lan rộng vũ khí nguyên tử.

Vì đang còn trong thời kỳ phôi thai, phần lớn các lò này, trên lý thuyết, an toàn hơn, nhưng chưa thể xuất hiện trên thị trường trước những năm 2035-2040.

Quyết định chủ trương đầu tư nhà máy điện hạt nhân tại thời điểm này, Việt Nam sẽ lựa chọn công nghệ nào?

Lò phản ứng EPR đầu tiên của thế giới đang được xây dựng ở địa điểm Olkiluot, Phần Lan, và dự kiến hoàn thành vào năm 2009. Ảnh: Thư viện vật lý.

Theo phương án mà chủ đầu tư (EVN) đề xuất, dự kiến công nghệ lựa chọn thuộc thế hệ thứ II. Vì sao lại lựa chọn công nghệ thế hệ thứ II không an toàn mà các nước tiên tiến đang chuẩn bị thay thế khi các lò thế hệ này hết hạn sử dụng (mà phần nhiều lò hết hạn sử dụng vào khoảng những năm 2020) và chúng ta sẽ còn gặp khó khăn về bảo trì, bảo dưỡng và thiết bị thay thế.

Không thể nói như trong Báo cáo đầu tư, giai đoạn này chúng ta chưa đưa ra quyết định lựa chọn công nghệ mà vẫn để mở cho giai đoạn sau. Chủ đầu tư cần có giải trình thuyết phục về phương án công nghệ lựa chọn, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề an toàn và giá thành của nhà máy, để báo cáo Quốc hội.

Chúng ta cần hết sức thận trọng và tỉnh táo trước sự vận động hành lang, tuyên truyền một chiều của các công ty nước ngoài về công nghệ điện hạt nhân của họ chỉ vì mục đích sao cho bán được lò hạt nhân, nhằm tránh mua phải công nghệ đã lỗi thời của công ty đó, kể cả các lò đã lạc hậu, thiếu an toàn bất chấp các hậu quả về kinh tế – xã hội và môi trường cho nước ta, thậm chí có thể biến nước ta thành bãi thải công nghệ điện hạt nhân.

Để bảo đảm tính an toàn và kinh tế của điện hạt nhân, chúng ta cần phải nhập thế hệ lò tiên tiến nhất có thể, tức lò thế hệ III hoặc thậm chí chờ thêm một thời gian nữa để nhập về lò thế hệ thứ IV cho nhà máy điện hạt nhân của Việt Nam!

.

Quy trình xây dựng nhà máy

Nhiều yếu tố khác bảo đảm an toàn (như quản lý quá trình xây dựng, lắp đặt thiết bị, vận hành…) của nhà máy điện hạt nhân đều phải tuân thủ những quy trình đặc biệt nghiêm ngặt, mà bất cứ một sai sót nào cũng có thể tiềm ẩn nguy cơ gây mất an toàn.

Thí dụ đơn giản, nếu không giám sát kỹ khi xây dựng nhà máy, để xảy ra việc dùng sắt thép, xi măng không đủ tiêu chuẩn, hoặc bị rút ruột công trình thì sẽ là tai họa khôn lường.

Chúng ta đã có nhiều bài học về năng lực quản lý xây dựng các công trình lớn của quốc gia, để xảy ra nhiều hậu quả đáng tiếc như các sự cố gần đây (cầu Cần Thơ, hầm Thủ Thiêm v.v.). Xin lưu ý, nếu xảy ra tình trạng tương tự đối với công trình nhà máy điện hạt nhân thì hậu quả sẽ bi thảm và lâu dài hơn nhiều lần.

Tuy các tiêu chuẩn, quy trình kỹ thuật về các công việc này có thể ban hành khi đã chính thức quyết định chủ trương đầu tư nhà máy điện hạt nhân, nhưng cũng cần có danh mục và lộ trình cụ thể ban hành các tiêu chuẩn, quy trình kỹ thuật chuyên ngành.

Ngoài ra, trong những năm gần đây, để bảo đảm an toàn trong trường hợp bị khủng bố, trong thiết kế nhà máy điện hạt nhân còn phải tăng cường khả năng chống phá hoại (kể cả phá hoại theo kiểu 11/9 ở Hoa Kỳ năm 2001, tức là phải an toàn cả trong trường hợp bị máy bay đâm thẳng vào nhà máy) và tăng cường hệ thống bảo vệ an ninh nhiều vòng, chuẩn bị sẵn sàng hệ thống ứng phó sự cố hạt nhân.

Những công việc về bảo đảm an toàn nhà máy điện hạt nhân làm cho các yêu cầu kỹ thuật, tài chính đối với công trình tăng lên rất nhiều và đó là điều chủ đầu tư cần phải báo cáo Quốc hội ngay trong giai đoạn phê duyệt chủ trương đầu tư để Quốc hội cân nhắc, quyết định.

  • Ts. Nguyễn Quốc Anh

__________

nguồn: Tuần Việt Nam, 09/03/2009.

http://tuanvietnam.net/rui-ro-dang-sau-nhung-nha-may-dien-hat-nhan

Read Full Post »

ĐIỆN HẠT NHÂN:

PHÁP LÝ QUỐC GIA VÀ RÀNG BUỘC QUỐC TẾ

__________

 

 

Ts. Vật lý Nguyễn Quốc Anh.

Tuần Việt Nam, 09/03/2009

(TuanVietNam) – Đặc thù của điện hạt nhân khiến cho những ràng buộc quốc tế, cả về mặt pháp lý và quy trình xây dựng, vận hành và xử lý chất thải sau sản xuất điện phải tuân thủ những tiêu chuẩn khắt khe của quốc tế. Việt Nam liệu đã sẵn sàng cho loại năng lượng mới này?

LTS: Chủ trương đến năm 2020 xây dựng một số nhà máy điện hạt nhân đang trong quá trình bàn thảo, chờ Quốc hội phê duyệt. Đây là vấn đề lớn, cần sự cẩn trọng đánh giá, thẩm định mọi khía cạnh trước khi đi đến quyết định cuối cùng.

Ngày 12/3 Hội đồng thẩm định Nhà nước về nhà máy điện hạt nhân sẽ họp. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam giới thiệu loạt bài viết của Ts. Vật lý Nguyễn Quốc Anh.

.
Khung pháp lý quốc gia chưa sẵn sàng?

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trước khi quyết định một dự án điện hạt nhân cụ thể, mỗi quốc gia cần phải quyết định, có hay không phát triển chương trình điện hạt nhân.

Nhà máy điện hạt nhân của Mỹ đã để xảy ra sự cố hạt nhân. Ảnh: Thư viện vật lý.

Sau khi quyết định chủ trương, vấn đề quan trọng tiếp theo là phê duyệt Chiến lược phát triển điện hạt nhân, trong đó phải định hướng được tỷ lệ đóng góp của điện hạt nhân trong tổng nhu cầu điện quốc gia; quy hoạch định hướng phát triển về số lượng nhà máy điện hạt nhân (NMĐHN); địa điểm xây dựng; công nghệ lựa chọn lò phản ứng; nguồn nhiên liệu và bảo đảm an ninh nhiên liệu; nguồn nhân lực và lộ trình bảo đảm nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu vận hành an toàn NMĐHN; mối quan hệ giữa nhập khẩu công nghệ, nhiên liệu và khả năng nội địa hóa; lộ trình xây dựng hệ thống pháp luật về điện hạt nhân v.v.

Việc này phải được quyết định trước khi có một dự án NMĐHN cụ thể. Ở nước ta, các việc này chưa được cấp có thẩm quyền quyết định!

Một số nước như Hàn Quốc có thể khởi động chương trình điện hạt nhân khi chưa có hệ thống nội luật đầy đủ, nhưng họ áp dụng toàn bộ tiêu chuẩn kỹ thuật của Hoa Kỳ. Trung Quốc cũng chưa có Luật Năng lượng nguyên tử (NLNT), nhưng lại có đầy đủ các quy định chi tiết cho tất cả các khâu: lựa chọn địa điểm, thiết kế, xây dựng, cấp phép vận hành…

Việt Nam đã có Luật NLNT, trong đó quy định, để quyết định chủ trương và xây dựng, vận hành NMĐHN, cần ban hành nhiều văn bản dưới luật: Nghị định về NMĐHN; các quy định, tiêu chuẩn nhằm bảo đảm an toàn hạt nhân như về lựa chọn địa điểm, các tiêu chuẩn an toàn trong thiết kế, trong xây dựng và trong vận hành NMĐHN; các quy định, tiêu chuẩn về cấp phép vận hành, bảo đảm an ninh, công tác ứng phó sự cố cho NMĐHN v.v.

Ở nước ta, mới có 24 văn bản dưới luật và 26 tiêu chuẩn kỹ thuật quy định, hướng dẫn chủ yếu về an toàn bức xạ (trong đó nhiều văn bản cần sửa đổi cho phù hợp với Luật NLNT).

Hệ thống các quy định chi tiết cho triển khai dự án điện hạt nhân ở Việt Nam hiện chưa sẵn sàng, vì vậy rất khó để quản lý an toàn một ngành đặc thù như điện hạt nhân.

.

Đã chuẩn bị đủ các cam kết quốc tế?

Khác với các loại nguồn điện khác, phát triển điện hạt nhân là vấn đề quốc tế nhạy cảm, vì có thể là khởi nguồn của chương trình chế tạo vũ khí nguyên tử. Vì thế để có sự hợp tác quốc tế về mặt kỹ thuật cũng như tài chính, tránh bị bao vây, cô lập trong các lĩnh vực khác, các nước đi sau muốn có điện hạt nhân nhất thiết phải cam kết chỉ sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình, không phổ biến vũ khí hạt nhân và chấp nhận thanh sát quốc tế đối với chương trình điện hạt nhân.

Nhà máy điện hạt nhân Bushehr, Iran. Ảnh THX.

Hiện nay, nước ta đã tham gia 8 điều ước quốc tế, trong đó có các điều ước quan trọng như Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (1982), Công ước thông báo sớm tai nạn hạt nhân (1987), Công ước trợ giúp trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc tai nạn phóng xạ (1987), Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện (ký năm 1996, phê chuẩn năm 2006), Hiệp định thanh sát hạt nhân với Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA (1990) và Nghị định thư bổ sung cho Hiệp định thanh sát (ký năm 2007, chưa phê chuẩn) v.v.

Để xây dựng NMĐHN, Việt Nam cần phải phê chuẩn Nghị định thư bổ sung nói trên và ký kết một số điều ước quốc tế khác như Công ước an toàn hạt nhân, Công ước Bảo vệ thực thể vật liệu hạt nhân và phần sửa đổi về Bảo vệ thực thể cơ sở hạt nhân, Công ước chung về quản lý an toàn nhiên liệu đã cháy và quản lý an toàn chất thải phóng xạ, Công ước Viên về trách nhiệm dân sự đối với tổn hại hạt nhân, Công ước triệt tiêu các hành động khủng bố hạt nhân, v.v.

Việc tham gia các điều ước mới là một quá trình, nhưng cho đến nay hầu như chúng ta vẫn chưa bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu. Đối với các điều ước đã ký, chúng ta cũng hầu như chưa có nghiên cứu chi tiết các quy định cụ thể về trách nhiệm của quốc gia khi tham gia điều ước và cơ chế thực hiện giám sát quốc tế đối với chương trình điện hạt nhân.

Không rõ trách nhiệm và cơ chế giám sát, có thể dẫn đến những rắc rối, phức tạp trong quan hệ quốc tế cho quốc gia nói chung, cho chương trình điện hạt nhân nói riêng.

Thí dụ như Ấn Độ không tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân và Hiệp định thanh sát hạt nhân nên đã bị các nước có điện hạt nhân phát triển cô lập, gặp rất nhiều khó khăn về nhiên liệu hạt nhân; gần đây mới chấp nhận thanh sát quốc tế.

Iran, CHDCND Triều Tiên không chấp nhận thanh sát quốc tế nên dù tuyên bố chỉ sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đich dân sự nhưng luôn bị quốc tế nghi ngờ chế tạo vũ khí nguyên tử và bị bao vây, cô lập cả về chính trị và kinh tế …

Quyết định chủ trương phát triển điện hạt nhân và phê chuẩn, tổ chức thực hiện các cam kết quốc tế là vấn đề lớn, nhạy cảm, liên quan đến sự an toàn, an ninh và chủ quyền của quốc gia. Việc này phải do cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội quyết định.

.

Tham gia các tổ chức quốc tế

Bên cạnh tham gia các điều ước quốc tế, để thực hiện chương trình điện hạt nhân, chúng ta còn cần gia nhập hoặc có lộ trình gia nhập và tham gia vào các hoạt động chung của các tổ chức quốc tế về năng lượng hạt nhân.

Thí dụ, chúng ta không thể nội địa hóa nhiên liệu cho NMĐHN, do trữ lượng uranium đã biết không đủ và không có ý nghĩa kinh tế để phát triển nhiên liệu điện hạt nhân ở Việt Nam. Mặt khác, quy trình làm giàu và chế tạo nhiên liệu hạt nhân từ quặng uranium hoặc tái chế nhiên liệu hạt nhân là rất phức tạp về mặt công nghệ, bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định quốc tế.

Một nhà máy điện hạt nhân ở Pháp. Ảnh: Thư viện vật lý.

Để bảo đảm an ninh nhiên liệu hạt nhân, Việt Nam cần tham gia vào “Hiệp hội năng lượng hạt nhân toàn cầu (GNEP)” hoặc các tổ chức tương tự. GNEP thiết lập một hệ thống đa quốc gia nhằm đảm bảo cung cấp nhiên liệu hạt nhân với giá cả hợp lý, và vì vậy không cho phép các nước đang phát triển mới tham gia chương trình điện hạt nhân dân sự được phát triển công nghệ làm giàu hoặc tái chế nhiên liệu hạt nhân nội địa, buộc các nước này phải phụ thuộc về nguồn nhiên liệu hạt nhân vào các nước được phép sản xuất nhiên liệu hạt nhân.

Biết sẽ phải chịu ràng buộc, muốn phát triển điện hạt nhân, Việt Nam vẫn không có giải pháp nào khác là tham gia thị trường cung cấp nhiên liệu do các nước lớn chi phối và chấp nhận rủi ro về giá cả cũng như các áp đặt khác trong quan hệ quốc tế.

.

Hoàn chỉnh hệ thống quản lý trong nước

Theo kinh nghiệm quốc tế, các nước có chương trình phát triển điện hạt nhân đều có một cơ quan pháp quy hạt nhân để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về an toàn, an ninh hạt nhân như nghiên cứu xây dựng các văn bản pháp quy về hạt nhân, xây dựng quy trình cấp phép, phân tích, thẩm định, đánh giá an toàn của từng dự án điện hạt nhân, thanh tra, xử lý vi phạm về an toàn hạt nhân và thực hiện nhiệm vụ kiểm soát hạt nhân.

Thí dụ, Cơ quan Quản lý hạt nhân (NRC) của Hoa Kỳ, Cơ quan An toàn hạt nhân (ASN) của Pháp, Cơ quan An toàn hạt nhân quốc gia (NNSA) của Trung Quốc,… Nhân lực của các cơ quan này thường vào khoảng 200-300 người, cá biệt như cơ quan này của Hoa Kỳ, của Pháp có tới 2000-3000 người.

Theo quy định của Luật NLNT của Việt Nam, riêng trong lĩnh vực điện hạt nhân, Chính phủ phải trình Quốc hội quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư NMĐHN và nhiều Bộ cùng tham gia quản lý nhà nước về điện hạt nhân như Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng.

Bản đồ địa điểm các nhà máy điện hạt nhân của Mỹ. Ảnh: Solcomhouse.

Việc quy định Chính phủ chịu trách nhiệm và nhiều Bộ cùng tham gia quản lý nhà nước về NMĐHN cho thấy Quốc hội đã lường trước sự phức tạp, khó khăn của công việc này. Nếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước thiếu thống nhất và thiếu đồng bộ sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chương trình phát triển điện hạt nhân.

Hiện nay, nhiều Bộ (trừ Bộ KH&CN) hầu như chưa có cơ quan hoặc bộ phận chuyên môn làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về an toàn hạt nhân. Bản thân cơ quan thuộc Bộ KH&CN cũng mới được thành lập với số nhân lực và phương tiện rất hạn chế nên việc phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về an toàn hạt nhân gần như là nhiệm vụ bất khả thi.

Việc hình thành cơ quan quản lý nhà nước thống nhất, có thẩm quyền và có khả năng phối hợp các bộ phận có liên quan về an toàn hạt nhân của các Bộ là hết sức cần thiết.

Bên cạnh cơ quan pháp quy hạt nhân, các nước phát triển chương trình điện hạt nhân đều có cơ quan hỗ trợ kỹ thuật về an toàn hạt nhân và cơ quan nghiên cứu, triển khai về điện hạt nhân.

Cơ quan hỗ trợ kỹ thuật là cơ quan chuyên môn độc lập, có nhiệm vụ chính là phân tích, đánh giá, thẩm định về mặt an toàn đối với các công trình hạt nhân nhằm giúp cơ quan quản lý có đủ cơ sở khoa học và kỹ thuật cho việc ra quyết định cấp phép xây dựng hoặc hoạt động của NMĐHN, đồng thời hỗ trợ kỹ thuật cho việc bảo đảm thi hành các quy định của pháp luật về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân trong quá trình lựa chọn địa điểm, xây dựng, vận hành, bảo dưỡng, tháo dỡ công trình hạt nhân, quản lý chất thải phóng xạ, giám sát môi trường và sẵn sàng ứng phó sự cố v.v.

Cơ quan nghiên cứu, triển khai có nhiệm vụ nghiên cứu, đánh giá lựa chọn công nghệ; tiếp thu và chuyển giao, ứng dụng công nghệ điện hạt nhân; nghiên cứu, phát triển kỹ thuật công nghệ nội địa; nghiên cứu cơ bản, cung cấp các dịch vụ khoa học kỹ thuật về điện hạt nhân.

Hiện nay, ở nước ta cả 3 loại cơ quan này theo thông lệ quốc tế đều chưa có (hoặc chưa đủ thẩm quyền và chưa được tổ chức tương xứng với nhiệm vụ). Vì vây, cần gấp rút tổ chức ngay việc xây dựng các cơ quan này phù hợp với thông lệ quốc tế, đủ sức thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.

  • Ts. Nguyễn Quốc Anh

__________

nguồn: TuanVietNam.net, (09/03/2009)

http://tuanvietnam.net/dien-hat-nhan-phap-ly-quoc-gia-va-rang-buoc-quoc-te

Read Full Post »

NHÂN LỰC CHO ĐIỆN HẠT NHÂN CHƯA SẴN SÀNG

__________

TS Nguyễn Quốc Anh

Tuần Việt Nam, 13/03/2009.

.

(TuanVietNam) – Nhân lực là vấn đề vô cùng quan trọng, quyết định sự thành, bại của chương trình điện hạt nhân. Nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp đến 2 vấn đề: sự an toàn của NMĐHN và tính hiệu quả kinh tế của NMĐHN. Việt Nam đã sẵn sàng?

.

Thế giới chuẩn bị nhân lực cho điện hạt nhân thế nào?

Đa số các sự cố hạt nhân đã xảy ra, kể cả ở các nước tiên tiến nhất về kỹ thuật và đào tạo nhân lực ngành hạt nhân, có truyền thống về kỷ luật lao động và văn hóa an toàn như Hoa Kỳ, Nga, Nhật v.v., có nguyên nhân là do con người. Vì thế, tất cả các nước đều rất coi trọng việc chuẩn bị nhân lực cho chương trình điện hạt nhân, đặc biệt là chọn người đứng đầu để giao việc chủ trì chương trình điện hạt nhân.

Nhà máy điện hạt nhân Tricastin ở Bollene, miền nam nước Pháp. Ảnh: AP.

Liên xô cũ khi xây dựng NMĐHN đầu tiên đã chỉ định chuyên gia hàng đầu về năng lượng nguyên tử là Viện sĩ Blokhintsev phụ trách. Các nước Trung quốc, Ấn Độ khi xây dựng NMĐHN đầu tiên cũng đã mời các chuyên gia đầu ngành về năng lượng nguyên tử để phụ trách dự án và chỉ bắt đầu từ một lò công suất nhỏ. Nguyên tắc chung là người phụ trách chương trình điện hạt nhân phải là chuyên gia đầu ngành về năng lượng nguyên tử.

Để quản lý an toàn một ngành đặc thù như điện hạt nhân, theo khuyến cáo của IAEA và các nước có điện hạt nhân phát triển, thì các cơ quan pháp quy, cơ quan hỗ trợ kỹ thuật về an toàn hạt nhân và cơ quan nghiên cứu, triển khai đều phải có đủ số lượng nhân lực cần thiết.

Thí dụ, cơ quan pháp quy phải tuyển chọn được đủ số lượng nhân lực theo các chuyên ngành ít nhất là 2 năm trước khi phải tiến hành thẩm định các nội dung an toàn hạt nhân có liên quan như thẩm định an toàn lựa chọn địa điểm, cấp phép xây dựng và cấp phép vận hành nhà máy điện hạt nhân. Số nhân lực cần phải có và tham gia đánh giá an toàn, lựa chọn địa điểm của NMĐHN của cơ quan này trong 2 năm đầu của giai đoạn tiền khả thi là 16 người; trong 2 năm tiếp theo là 32 người v.v.

Nhân lực quản lý, vận hành cho dự án NMĐHN cụ thể thường được đào tạo trong quá trình xây dựng, đưa nhà máy vào vận hành và thường xuyên được đào tạo lại trong quá trình hoạt động của nhà máy. Số nhân lực cụ thể phụ thuộc vào công nghệ lựa chọn và quy định của từng quốc gia, thường từ khoảng 400 – trên 1000 người cho một lò phản ứng.

Ngoài ra, còn phải có đội ngũ nhân lực hàng nghìn người để xây dựng nhà máy với các tiêu chuẩn đào tạo riêng phù hợp với đặc thù và yêu cầu an toàn của công trình điện hạt nhân.

Một điều cần lưu ý là, do khủng hoảng hạt nhân gần 30 năm qua, hệ thống các cơ sở nghiên cứu, cơ sở đào tạo nhân lực và đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học và giáo sư hàng đầu về hạt nhân giảm đáng kể trên khắp thế giới. Đây là một khó khăn lớn cho việc “hồi sinh” ngành điện hạt nhân trong thời gian tới.

.

Yêu cầu nhân lực cho điện hạt nhân của Việt Nam

Điện hạt nhân là ngành công nghiệp đặc biệt nhạy cảm, có công nghệ phức tạp với yêu cầu an toàn cao (gần như tuyệt đối) và có đòi hỏi đặc thù là nhiều cán bộ có năng lực không thay thế được cho một chuyên gia chất lượng cao đủ sức chủ trì chương trình điện hạt nhân hoặc đảm đương một công đoạn cụ thể.

Chương trình đào tạo nhân lực phải đi trước một bước so với các công tác khác và phải bắt đầu chuẩn bị kỹ lưỡng đội ngũ chuyên gia, kỹ thuật viên, cán bộ quản lý trước khi NMĐHN đi vào vận hành từ 10-15 năm hoặc sớm hơn nữa.

Ảnh:hvacr.vn

Do tính chất đặc biệt quan trọng tới sự an toàn, an ninh và chủ quyền quốc gia, nhân lực cho ngành này phải dựa vào người Việt Nam là chủ yếu và phải là những người được đào tạo đáp ứng nhu cầu về chất lượng (cả về năng lực làm chủ công nghệ, năng lực quản lý và tính kỷ luật, trách nhiệm trong vận hành), đủ về số lượng cho cả chương trình điện hạt nhân nói chung và cho cả các dự án NMĐHN cụ thể.

Trong giai đoạn đầu, chúng ta cần và phải thuê chuyên gia nước ngoài, nhưng dù có thuê thì người Việt Nam vẫn phải đủ năng lực quản lý hoạt động của họ phù hợp với lợi ích của quốc gia, không được để lệ thuộc hoàn toàn vào chuyên gia nước ngoài.

.

Nhân lực điện hạt nhân đã sẵn sàng?

Hiện nay, chúng ta mới có một đội ngũ khoảng 600 kỹ sư, nhân viên kỹ thuật làm việc trong các lĩnh vực hạt nhân, phần lớn trong các lĩnh vực phi năng lượng (chủ yếu tại lò phản ứng nghiên cứu Đà Lạt và một số viện nghiên cứu hạt nhân).

Số nhân lực này là rất quý, nhưng xét cho cùng, họ cũng chưa phải là các chuyên gia, kỹ thuật viên về điện hạt nhân và nếu muốn sử dụng họ cho điện hạt nhân thì cũng phải đào tạo lại.

Số làm việc trong lĩnh vực gần với điện hạt nhân chỉ khoảng 30-40 người, phần lớn lại đã cao tuổi. Các chuyên gia đầu ngành về hạt nhân và điện hạt nhân đều đã ở độ tuổi 70, tuy vẫn còn sức khỏe, nhưng đã nghỉ hưu. Vì vậy, họ hầu như không tham gia vào việc xây dựng chương trình điện hạt nhân và dự án NMĐHN Ninh Thuận.

Ảnh: vista.gov.vn

Hiện chúng ta vẫn chưa xác định được số nhân lực thực có cho chương trình điện hạt nhân, cho dự án NMĐHN cụ thể là bao nhiêu; trình độ, năng lực chuyên môn cụ thể thế nào; lĩnh vực nào của chương trình điện hạt nhân còn thiếu nhân lực, thời gian cần thiết để đào tạo là bao nhiêu v.v. ? Các con số thông kê nêu trên chỉ có ý nghĩa tham khảo.

Nhân lực ngắn hạn theo các nhiệm vụ của từng giai đoạn triển khai dự án xây dựng NMĐHN Ninh Thuận hiện chưa khẳng định được quy mô đào tạo cụ thể, vì chưa có phương án lựa chọn công nghệ áp dụng cho NMĐHN đầu tiên, mà chỉ đưa ra một quy mô theo khuyến cáo của chuyên gia Nhật Bản.

Có thể thấy, chủ đầu tư vẫn còn lúng túng, không có định hướng về chuẩn bị nhân lực cho dự án.

Điều này cũng cho thấy, việc chuẩn bị dự án phải rất đồng bộ mọi nội dung, không thể tùy tiện như Báo cáo đầu tư nêu ra (thí dụ, chưa đặt vấn đề quyết định công nghệ trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư).

Có thể khẳng định, hiện nay Việt Nam chưa sẵn sàng về nhân lực và cũng rất khó chuẩn bị kịp nhân lực đáp ứng yêu cầu triển khai điện hạt nhân vào năm 2020.

.

Làm gì để chuẩn bị nhân lực cho điện hạt nhân?

Ông cha ta đã đúc kết: Một người biết lo bằng cả kho người làm; Sĩ tốt dễ kiếm, tướng giỏi khó tìm. Khó nhất đối với nước ta hiện nay là làm cách nào để có và đưa được chuyên gia đầu ngành phụ trách lĩnh vực đòi hỏi rất cao về học thuật này? Không đổi mới cách tổ chức chỉ đạo và không chọn đúng người để giao việc trọng đại này, chương trình điện hạt nhân chắc chắn sẽ thất bại!

Mô hình nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận. Ảnh: hut.edu.vn

Các chuyên gia đầu ngành về hạt nhân và điện hạt nhân của Việt Nam như GS Phạm Duy Hiển, TSKH Nguyễn Thọ Nhân và một số người khác tuy đã cao tuổi, nhưng rất minh mẫn, nhiều kinh nghiệm và còn sức khỏe tốt. Vấn đề là cần có cơ chế để mời các chuyên gia giỏi tham gia, thậm chí giao phụ trách chương trình điện hạt nhân. Đây là vấn đề phải do cấp Chính phủ quyết định. Chúng ta chỉ nên thực hiện chế độ hưu đối với công chức hành chính, còn đối với các vấn đề chuyên môn, học thuật cao, có thể sử dụng cả những người ngoài 70 đến 80 tuổi.

Để có nguồn nhân lực cho chương trình điện hạt nhân và NMĐHN, ngay từ bây giờ chúng ta phải gấp rút đào tạo, chuẩn bị cả ba loại nhân lực: cán bộ quản lý, chuyên gia, kỹ thuật viên vận hành nhà máy điện hạt nhân; đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và chuyên gia hỗ trợ kỹ thuật về an toàn hạt nhân. Ngoài các yêu cầu về chuyên môn, kỹ thuật, cần đặc biệt chú ý đào tạo về tính chuyên nghiệp, ý thức chấp hành kỷ luật lao động và văn hóa an toàn cho những người làm trong ngành điện hạt nhân.

Đây là một việc không hề đơn giản với điều kiện và cách làm của chúng ta hiện nay. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch tổng thể của Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình từ năm 2007, đến nay gần 2 năm trôi qua, nhưng đề án đào tạo nhân lực cho điện hạt nhân trong kế hoạch này vẫn chưa hình thành.

Cơ sở đào tạo ở trong nước không có, các cơ sở đào tạo nêu trong Báo cáo đầu tư về thực chất chưa có chuyên ngành đào tạo trực tiếp cho chương trình điện hạt nhân và cũng chưa sẵn sàng về đội ngũ cán bộ giảng dạy, việc chuẩn bị đòi hỏi phải có thời gian thì mới bảo đảm chất lượng đào tạo.

Trong khi đó chương trình cử người đi đào tạo về điện hạt nhân và an toàn hạt nhân ở nước ngoài chưa khởi động và cũng rất khó tuyển người do chưa có chế độ chính sách phù hợp và thiếu nguồn tuyển.

Giải bài toán đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực như thế nào để phát triển điện hạt nhân cũng là điều cơ quan có trách nhiệm cần báo cáo với Quốc hội khi xem xét phê duyệt chủ trương phát triển điện hạt nhân và đầu tư xây dựng NMĐHN.

.

Thay cho lời kết

Với loạt bài viết này, tôi không có mong muốn gì hơn là mọi người, nhất là những người có trách nhiệm và có thẩm quyền quyết định chương trình điện hạt nhân, nhìn nhận được một cách toàn diện những khó khăn, thách thức đang đặt ra khi quyết định vấn đề trọng đại này của đất nước.

Nhìn nhận được vấn đề không phải để rút lui, mà để có những quyết định tỉnh táo và thực tế. Biết mình, biết người, biết rõ công việc thì mới có cơ may thành công, không đặt đất nước vào tình thế không còn đường rút.

Một số việc cần làm ngay là phải tổ chức lại bộ máy chuẩn bị chương trình điện hạt nhân quốc gia và lựa chọn lại người để giao trọng trách gánh vác nhiệm vụ.

Tiếp theo là phải đề ra được chiến lược tổng thể phát triển điện hạt nhân, xây dựng và tổ chức thực hiện lộ trình phát triển điện hạt nhân một cách khẩn trương, tuân thủ các thông lệ quốc tế và không thể vội vã, đốt cháy giai đoạn.

Cùng với việc xây dựng dự án NMĐHN, cần xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng điện khác, thí dụ như hệ thống đường truyền tải điện siêu cao áp và trạm đấu nối (không được dự toán trong Báo cáo đầu tư), nếu không điện hạt nhân làm ra cũng không để làm gì, gây lãng phí.

Tin và mong rằng, biết làm đúng cách, Việt Nam sẽ làm chủ được công nghệ, có điện hạt nhân an toàn và kinh tế ở một thời điểm thích hợp.

Ts. Nguyễn Quốc Anh

__________

nguồn: TuanVietNam.net, (13/03/2009)

http://tuanvietnam.net/nhan-luc-cho-dien-hat-nhan-chua-san-sang

 

Read Full Post »

DỰ ÁN ĐIỆN HẠT NHÂN VÀ

NHỮNG CÂU HỎI CÒN BỎ NGÕ

__________

Tác giả: Phạm Duy Hiển
TuanVietNam.net – 26/10/2009

Không thể xem nhà máy ĐHN như một món hàng thông thường có thể mua sắm dễ dàng, ai cần thì sắm, cần bao nhiêu sắm bấy nhiêu, mà quên rằng đây là một công nghệ rất phức tạp, quy mô đồ sộ, lại chứa đựng không ít rủi ro, nhạy cảm, vốn gây chia rẽ thế giới dai dẳng trong nhiều thập kỷ qua.

LTS: Tại kỳ họp QH lần này, dự án điện hạt nhân Ninh Thuận sẽ được đặt lên bàn nghị sự. Dự án được xem có ý nghĩa chiến lược trong cân bằng năng lượng phục vụ phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Và đây cũng là một dự án không dễ nghiên cứu đối với các ĐBQH. Vì sao phải xây dựng nhà máy điện hạt nhân vào thời điểm này? Nếu xây dựng thì những yếu tố cần và đủ là gì? Phải bảo đảm những yêu cầu gì về nguồn vốn đầu tư, về công nghệ, về độ an toàn và nhiều vấn đề phát sinh khác… Bài viết thể hiện góc nhìn riêng của GS Phạm Duy Hiển phần nào sẽ giúp độc giả giải đáp những câu hỏi này.

Nhà máy Điện hạt nhân – Ảnh minh họa

.

Điện hạt nhân trên bàn nghị sự

Báo cáo đầu tư (BCĐT) Dự án điện hạt nhân (ĐHN) Ninh Thuận đã được Chính Phủ thông qua và trình ra Quốc Hội xem xét trong kỳ họp cuối năm 2009, theo đó hai nhà máy ĐHN với bốn lò phản ứng công suất 4×1000 MW sẽ xuất hiện vào năm 2020 – 2022. Cũng theo BCĐT, bốn lò nữa sẽ tiếp tục đưa vào vận hành từ năm 2023 đến 2025. Một tốc độ khởi động ĐHN ồ ạt như thế chưa hề có tiền lệ trên thế giới. Với 8000 MW ĐHN vào 2025, Việt Nam sẽ đặt chân vào câu lạc bộ 15 nước hàng đầu thế giới về ĐHN. Để thuyết phục Chính phủ và Quốc hội, BCĐT đưa ra mấy nhận định cơ bản sau đây:

  • Nước ta rất thiếu điện, dự báo nhu cầu điện năng vào năm 2020 là 380 tỷ kWh, gấp bốn lần năm 2010, nhưng than, dầu, thủy điện đến lúc này đều cạn kiệt,
  • ĐHN bảo đảm an ninh năng lượng cho đất nước,
  • ĐHN rất an toàn,
  • Giá thành ĐHN chấp nhận được, tổng vốn đầu tư cho bốn tổ máy đầu tiên khoảng 11 tỷ USD.
  • Kế hoạch hoàn toàn khả thi.

BCĐT đi đến những nhận định trên qua thông tin từ rất nhiều nước trên thế giới, trên mạng và qua những chuyến tham quan được các hãng chế tạo nhà máy ĐHN nước ngoài bố trí. Nhưng vì nguồn thông tin phiến diện, được chọn lọc có chủ đích, không được xử lý từ góc độ khoa học, nên những nhận định trên đây đều không ổn.

Không thể xem nhà máy ĐHN như một món hàng thông thường có thể mua sắm dễ dàng, ai cần thì sắm, cần bao nhiêu sắm bấy nhiêu, mà quên rằng đây là một công nghệ rất phức tạp, quy mô đồ sộ, lại chứa đựng không ít rủi ro, nhạy cảm, vốn gây chia rẽ thế giới dai dẳng trong nhiều thập kỷ qua. Cũng phải đạt đến một trình độ KH-CN nhất định mới chinh phục được nó. Cho nên cho đến nay mới chỉ 31 nước có nhà máy ĐHN.

Chúng ta cần phải làm ĐHN, và cọc mốc 2020 đưa ĐHN lên lưới là một chủ trương cần ra sức phấn đấu thực hiện. Ở cọc mốc đó có mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa mà đất nước đang hướng tới. Nhưng tám lò phản ứng cỡ lớn vào năm 2025 không phải là biểu hiện của một nước Việt Nam công nghiệp hóa – hiện đại hóa nếu chúng ta chỉ sở hữu mà không làm chủ chúng.

Câu hỏi quan trọng giờ đây là làm ĐHN với tư thế nào, theo con đường nào? Muốn trả lời câu hỏi này, thiết nghĩ nhà nước cần phải có đầy đủ thông tin khách quan và khoa học. Tránh né phản biện đa chiều để những tiếng vỗ tay lấn át sẽ tạo ra không khí chủ quan, coi thường tri thức khoa học-công nghệ, coi thường pháp luật, quy chuẩn kỹ thuật, rất tai hại.

Những sự cố ĐHN lớn xảy ra trên thế giới đều do con người và quản lý gây ra, nhân tố kỹ thuật chỉ đóng góp một phần. Lắng nghe ý kiến phản biện không phải để tháo lui, mà để ra các quyết sách đúng đắn cho đất nước, tạo ra đủ hành trang để bước lên quỹ đạo ĐHN.

.

Thiếu điện hay lãng phí điện

Thiếu điện nghiêm trọng là lý do tường minh được nêu ra để phát triển ồ ạt ĐHN. BCĐT dự báo nhu cầu điện năng vào năm 2020 là 380 tỷ kWh, gấp bốn lần năm 2010. Muốn thế, từ nay đến đó phải bảo đảm tăng trưởng điện năng trung bình khoảng 17%/năm, vượt quá kỷ lục 15%/năm cũng chính do ta nắm giữ (xem cột 2 bảng 1). Hậu quả là chúng ta lãng phí điện vào loại hàng đầu trên thế giới. Năm 2005 tiêu thụ 01 kWh ta chỉ làm ra 0,89 USD, trong khi Inđônêxia và Philippin làm ra 2 USD, một số nước khác còn nhiều hơn (xem cột 3, bảng 1).

Bảng 1:  Sử dụng điện ở một số nước châu Á căn cứ trên thống kê của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) và UNDP

Tốc độ tăng điện năng

2000-2006, %/năm

Hiệu quả sử dụng

USD/kWh, 2005

Nhật Bản

0.8

4,6

Đài Loan

3,9

Sin ga po

4,4

3,4

Phi lip pin

4.6

2,1

Ấn Độ

5,7

1,7

Inđô nê xia

6,3

2,7

Ma lai xia

7,1

1,6

Thái Lan

7,2

1,5

Hàn Quốc

7,7

2,2

Trung Quốc

13,7

1

Việt Nam

14,4

1,15

Những thông tin trên bảng 1 cho thấy càng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, tốc độ tăng trưởng điện năng càng giảm và hiệu quả sử dụng điện càng tăng. Chúng ta đang lạc hậu hơn ai hết, lại muốn tụt hậu thêm.

Sử dụng điện kém hiệu quả là do nền kinh tế có khuyết tật. Nếu dám nhìn thẳng vào khuyết tật để nâng hiệu quả sử dụng điện lên, chỉ cần ngang bằng với những nước Philippines, Inđônêxia, cũng đủ để chúng ta cắt giảm hẳn một nửa số nhà máy điện xây mới trước 2020.

.

Điện hạt nhân và an ninh năng lượng

BCĐT cho rằng ĐHN là giải pháp bảo đảm an ninh năng lượng. Song với cách làm như BCĐT thì chẳng những an ninh năng lượng không được bảo đảm mà độc lập tự chủ còn bị nguy cơ. Đơn giản là vì chẳng có bất cứ chi tiết nào trong nhà máy ĐHN do chúng ta làm ra, và chưa biết đến bao giờ chúng ta mới hết phụ thuộc vào người nước ngoài, ngay cả khâu xây dựng và vận hành nhà máy, nhất là với tốc độ ĐHN ồ ạt như BCĐT đề xuất. Có gì bảo đảm chắc chắn nhiên liệu hạt nhân sẽ được cung cấp kịp thời cho hàng chục nhà máy định đưa vào vận hành từ 2020 đến 2030?

Ai dám chắc các thanh nhiên liệu đã cháy với hoạt độ phóng xạ rất cao sẽ được mang đi?

Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc đều đối mặt với vấn đề an ninh năng lượng và đều thành công khi xem ĐHN là một giải pháp. Nhưng rất khác ta, họ nhập công nghệ và nội địa hóa nó nhờ biết cách phát triển lực lượng hạt nhân ngày càng hùng hậu, từ đó tiến lên làm chủ công nghệ, và tìm cách bảo đảm nguồn cung cấp nhiên liệu ổn định lâu dài.

Khi bàn đến an ninh năng lượng ta không nên quên năng lượng tái tạo. Tại sao với thiên nhiên ưu đãi, nắng gió quanh năm, mà năng lượng tái tạo vô tận với công nghệ đơn giản đầy thân thiện lại không được xem là một trong những giải pháp bảo đảm an ninh năng lượng lâu dài cho đất nước?

Năng lượng tái tạo hiện đang còn đắt, nhưng sẽ ngày càng rẻ hơn theo xu thế chung ngày càng phổ biến trên thế giới. Nếu đem hàng chục tỷ đô la của dự án ĐHN Ninh Thuận đầu tư vào năng lượng tái tạo thì phương án nào hiệu quả và đỡ rắc rối hơn? Cứ xem nước Đức từng dẫn đầu thế giới về công nghệ ĐHN, nơi ươm tạo ra các lò phản ứng thế hệ III+, IV cho thế kỷ 21, họ vẫn sẵn sàng từ bỏ con đường này để dựng lên những cánh quạt gió, những tấm pin mặt trời trên khắp cả nước.

.

Tính khả thi

Những ai có chút ít trải nghiệm về hạt nhân-phóng xạ ắt sẽ thấy ngay một kế hoạch như BCĐT đề ra hoàn toàn không khả thi. Ngay những cường quốc hạt nhân như Mỹ, Nga, Trung Quốc cũng không phiêu lưu như thế. Phần Lan, một nước rất tiên tiến về khoa học-công nghệ, từng nhiều năm khai thác lò phản ứng VVER thế hệ II của Nga đạt hệ số phụ tải kỷ lục 94%, song để bảo đảm an toàn hơn, họ chấp nhận đầu tư cao gấp bội để nhập lò phản ứng thế hệ III EPR của Pháp, một trong ba lò phản ứng đang xây dựng ở châu Âu. Nhưng trong quá trình xây dựng rất nhiều vi phạm quy chuẩn kỹ thuật, khuyết tật đã bị phát hiện, phải phá đi làm lại. Vì thế đến nay nhà máy đã trễ tiến độ hơn ba năm, giá thành đội lên hai lần, mà cuộc tranh chấp bồi thường thiệt hai giữa hai bên mua-bán vẫn chưa ngã ngũ.

Tiên tiến và đầy kinh nghiệm như Phần Lan, lại chỉ xây một lò, mà ỳ ạch như thế, liệu chúng ta có phép thần nào đưa tám lò vào hoạt động trong sáu năm? Trong khi hiện nay các cơ sở nghiên cứu và triển khai của ta đang trong quá trình thoái trào, ta không đủ chuyên gia để tự giải quyết bất cứ những vấn đề chuyên sâu nào liên quan đến ĐHN.

Rất ít người có thể giảng dạy môn hạt nhân, nhất là công nghệ ĐHN, ở cấp đại học. Các cơ sở đào tạo hạt nhân luôn trong tình trạng ế ẩm, các thầy dạy chay, chất lượng đầu vào đầu ra đều rất thấp. Hệ thống pháp quy và thực thi pháp luật hạt nhân mới bắt đầu chập chững.

Theo báo cáo của Cục An toàn Bức xạ và Hạt nhân (VARANS), chúng ta đang còn thiếu nhiều quy định cụ thể để triển khai dự án ĐHN, “để có ĐHN vào năm 2020, trong ba năm 2009-2011 cần phải ban hành 45 văn bản pháp quy, và phải có ít nhất 50 người để làm việc này”.

.

An toàn

BCĐT cho rằng những nhà máy ĐHN ở nước ta sẽ bảo đảm an toàn và giá thành điện năng có thể chấp nhận được với các lò phản ứng “thế hệ II trở lên”. Trên thực tế, ĐHN chưa an toàn, mà cũng chính vì vậy nên người ta phải đầu tư công sức để nâng cấp các lò phản ứng thế hệ II hiện nay lên thế hệ III và IV.

Những thế hệ lò mới này có tính an toàn thụ động (khi xuất hiện hiện tượng có thể dẫn đến mất an toàn tự nó sẽ có cơ chế hóa giải kịp thời), đủ kiên cố để nhốt các chất phóng xạ không cho thoát ra môi trường khi xảy ra sự cố nóng chảy vùng hoạt, và chống chịu được các va đập từ bên ngoài như máy bay rơi, động đất cấp tám trở lên. Nhưng lò thế hệ III vẫn không làm nản lòng những kẻ chủ mưu khủng bố và phá hoại. Lò thế hệ IV sẽ loại trừ được khả năng sử dụng nhiên liệu đã cháy để làm vũ khí hạt nhân.

Đối với Việt Nam, nhập lò phản ứng thế hệ thứ ba trở lên là điều kiện tiên quyết để khởi động chương trình ĐHN. Điều này cần được Quốc Hội ra quyết định dứt khoát, dù biết chắc nó sẽ đội giá thành lên rất nhiều. Với lò EPR thế hệ III đang xây ở Phần Lan, suất đầu tư đã lên đến 4800 USD/kW. Nhiều nguồn thông tin cho biết suất đầu tư lò thế hệ III AP-1000 của Mỹ cũng không dưới 5000 USD/kW.

An toàn và kinh tế là hai mục tiêu luôn đối kháng nhau, song trong bất cứ trường hợp nào an toàn vẫn phải đặt lên trên hết. Cho nên không thể vì chạy theo mục tiêu kinh tế mà phải hạ cấp lò phản ứng xuống thế hệ II như BCĐT đề xuất. Nghĩa là tổng đầu tư cho bốn tổ máy đầu tiên sẽ phải lên đến quá 16 tỷ, chứ không phải 11 tỷ USD như trong BCĐT.

Để bảo đảm tính nghiêm túc của dự án ĐHN, thiết tưởng nhà đầu tư phải long trọng khẳng định con số tổng đầu tư này trước Quốc Hội và dân chúng.

Nhưng sử dụng lò thế hệ III trở lên mới chỉ giảm bớt một phần rủi ro. An toàn ĐHN bao gồm nhiều khâu công nghệ cả bên trong lẫn bên ngoài lò phản ứng, mức độ sự cố trải rộng ra bảy cấp từ thấp lên cao. Ngay trong điều kiện lò hoạt động bình thường, hàng nghìn nhân viên làm việc quanh lò phải trực tiếp chịu phóng xạ, hàng vạn dân chúng sẽ nằm trong vùng chịu tác động bởi chất phóng xạ. Họ được bảo vệ bằng phương tiện kỹ thuật và Luật Năng lượng Nguyên tử sao cho liều chiếu xạ luôn dưới mức cho phép. Nhưng “dưới mức cho phép” không có nghĩa là an toàn. Khoa học đã chứng minh rằng liều phóng xạ thấp bao nhiêu cũng tác hại đến sức khỏe con người, ai tiếp xúc với nó cũng đều phải chịu rủi ro, mức độ càng cao khi liều chiếu càng lớn. BCĐT quên mất chuyện này.

.

Chất thải

Lò phản ứng tạo ra hai loại chất thải phóng xạ. Loại có hoạt độ thấp sau khi tạm giữ trong nhà lò một thời gian sẽ chuyển đến các nghĩa địa chôn cất lâu dài. Xử lý loại chất thải này không khó lắm. Đáng lo hơn là loại chất thải hoạt độ cao, gồm các thanh nhiên liệu đã cháy. Chúng được mang ra khỏi lò đem ngâm trong các bể chứa để được làm nguội bằng nước trong hàng chục năm, chờ phân rã bớt phóng xạ, sau đó mới tính đến chuyện vận chuyển trở lại cho hãng cung cấp. Trong chất thải hoạt độ cao này có các chất siêu urani sống hàng nghìn năm, lại rất độc hại, gây hiểm họa lâu dài cho bao nhiêu thế hệ tương lai. Xử lý chất thải phóng xạ hoạt độ cao, là thách thức rất nan giải mà ĐHN hầu như chưa có phương án giải quyết, và cũng đồng thời là tâm điểm chống đối ĐHN, vì đây là nguy cơ mất an toàn, lan truyền vũ khí hạt nhân và bom bẩn phóng xạ.

Với một tổ máy 1000 MW ở Ninh Thuận, lượng phóng xạ hàng năm sinh ra do các thanh nhiên liệu đã cháy sẽ gấp 1600 lần những gì hiện có bên trong lò phản ứng Đà Lạt đã hoạt động hơn 25 năm, ước tính lên đến ngót một triệu curi. Từ đó nhân lên cho 8 lò (và sẽ còn nhiều hơn nữa), mỗi lò hoạt động hàng chục năm, ta sẽ được một con số “khủng khiếp”.

Trên nguyên tắc, nước cung cấp lò sẽ mang đi những thanh nhiên liệu đã cháy sau vài chục năm ngâm giữ chúng tại chỗ, nhưng câu chuyện này cũng hết sức rắc rối, khó lường. Nên nhớ rằng chỉ cần 01 curi chất phóng xạ có thể đủ gây chết người khi nó không được bảo quản tốt. Đành rằng lượng phóng xạ khổng lồ đó được nhiều tầng bảo vệ nghiêm ngặt, nhưng ai dám khẳng định chúng sẽ an toàn tuyệt đối trước mọi thiên tai địch họa và sự bất cẩn của con người. Bảo quản một lượng phóng xạ khổng lồ như vậy chẳng khác nào mang về nhà một bầy hổ. Liệu cái cũi sắt nhốt chúng có làm cho chủ nhà và hàng xóm ngủ yên không?

.

Nhân lực cho ĐHN và vấn đề đào tạo chuyên gia

Địa điểm dự kiến xây nhà máy điện hạt nhân tại Ninh Thuận. Ảnh: taichinh.saga.com

.

ĐHN có an toàn hay không phụ thuộc chủ yếu vào đội ngũ vận hành và hệ thống quản lý, quan trọng nhất là bộ phận chuyên gia đầu đàn. BCĐT chẳng những không dám nhìn thẳng vào hiện trạng thiếu chuyên gia nghiêm trọng của chúng ta, mà không vạch ra được con đường dẫn đến những bước đột phá. Những ai có chút ít kinh nghiệm về hạt nhân-phóng xạ sau khi đọc BCĐT sẽ hiểu ngay rằng chúng ta sẽ dựa hoàn toàn vào người nước ngoài trong những quyết định chủ yếu nhất về ĐHN.

Không nước nào sẵn lòng giúp ta đào tạo chuyên gia, kể cả những nước sắp cung cấp nhà máy cho ta, bởi ĐHN là lãnh vực rất nhạy cảm. Vậy chỉ còn cách thông qua chà xát với những bài toán cụ thể trong chương trình ĐHN để đào tạo chuyên gia, cách làm “learning by doing” của các nước đi sau trên thế giới. Ba mươi năm trước đây, ngành hạt nhân Việt Nam cũng theo cách này để làm chủ lò phản ứng Đà Lạt. Chủ trương nhập ồ ạt hàng loạt nhà máy ĐHN có nghĩa là khước từ con đường này.

.

Chấp nhận rủi ro để giảm thiểu rủi ro

Làm ĐHN là chấp nhận rủi ro như khi ta chấp nhận rủi ro (có thể nằm trong số 30 ca tử vong hằng ngày) để ngồi lên chiếc xe khách chạy trên quốc lộ. Theo tính toán cho lò phản ứng thế hệ II, sai sót kỹ thuật dẫn đến nóng chảy nhiên liệu có thể xảy ra trung bình 01 lần khi có 1000 lò chạy trong 100 năm. Nhưng trên thực tế, tai nạn ở Three Mile Island, Mỹ, xảy ra vào năm 1979, sớm hơn tính toán trên đây rất nhiều, khi mới có hơn một trăm lò chạy hơn chục năm.

Tai nạn “đến sớm” như vậy là do con người và quản lý gây ra. Chủ quan, bất cẩn, là kẻ thù không đội trời chung với ĐHN, nó có thể làm tê liệt cả hệ thống, chẳng những xem thường mọi quy trình quy phạm lò phản ứng mà còn dửng dưng khi sự cố xảy ra. Tiếng nổ phá tung tòa nhà lò phản ứng Chernobyl (nổ do hydro) phải “mất” ba ngày mới đến tai Tổng Thống Gorbachev, trước đó đám mây phóng xạ đã kéo quá bờ Đại Tây Dương. Không phải Liên Xô thời ấy không đủ chuyên gia giỏi, nhưng chủ quan và thiếu công khai minh bạch trong toàn hệ thống đã dẫn đến thảm kịch. Với lò thế hệ III có khả năng nhốt chặt chất phóng xạ lại bên trong nhà lò, những thảm họa như Chernobyl sẽ rất khó xảy ra. Nhưng đừng quá lạc quan để rồi chủ quan. Con người có thể làm ra những chuyện rất bất ngờ!

Rủi ro về ĐHN có thể giảm thiểu giống như chúng ta có thể giảm số ca tử vong hằng ngày do tai nạn giao thông nhờ nâng cao ý thức của người đi đường, bằng luật pháp nghiêm minh và bằng cách cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông. Cũng vậy, quyết định làm ĐHN là chấp nhận rủi ro để cả nước tìm cách giảm thiểu rủi ro.

Tổ chức kinh doanh ĐHN và nhà nước phải sòng phẳng với công chúng trong chuyện này. Chẳng thế mà theo Luật Năng lượng nguyên tử, nhà nước phải tổ chức ra hệ thống ứng phó tai nạn hạt nhân khẩn cấp, thường xuyên diễn tập, và dành hẳn ra một khoản tiền “đặt cọc” khá lớn để bảo đảm cho người dân “yên tâm” sẽ được bồi thường thiệt hại khi xảy ra tai nạn.

Năng lực của đội ngũ chuyên gia và quản lý là nhân tố chủ yếu bảo đảm giảm thiểu rủi ro. Chăm lo phát triển đội ngũ này là cách tốt nhất để công chúng tin tưởng và ủng hộ ĐHN, chứ không phải tuyên truyền một chiều.

Với nguyên tắc an toàn trên hết, chỉ có thể bắt đầu dự án ĐHN khi có đầy đủ văn bản pháp luật, quy chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn kỹ thuật về an toàn hạt nhân để không ai có thể đứng trên luật pháp.

Phải có đội ngũ chuyên gia để người Việt Nam quyết định công việc của nước Việt Nam. Năm 2020 chỉ nên xem là cọc mốc để phấn đấu, từ đó tính lùi để biết những việc cần xúc tiến gấp, quyết không thể xem là cọc mốc kế hoạch, phải thực hiện cho kỳ được, ngay cả khi điều kiện không cho phép.

Trong quá trình thực hiện dự án lại phải có đủ thời gian để đội ngũ chuyên gia trong nước trưởng thành qua công việc và từng bước làm chủ công nghệ, hạ tầng cơ sở pháp luật được thử thách, hệ thống quản lý công nghiệp dần dần làm quen với một lãnh vực hoàn toàn mới là ĐHN. Làm như thế qua tổ máy thứ nhất, sau đó sẽ bắt đầu tổ máy thứ hai. Làm quyết liệt, nhưng thận trọng. Một chương trình ĐHN ồ ạt với tám lò phản ứng đưa vào vận hành trong giai đoạn 2020-2025 chẳng những hoàn toàn không khả thi mà chắc chắn sẽ để lại những hậu quả nặng nề cho đất nước.

  • Phạm Duy Hiển

__________

nguồn: TuanVietNam.net, 26/10/2009

http://tuanvietnam.net/2009-10-17-du-an-dien-hat-nhan-ninh-thuan-va-nhung-cau-hoi-con-bo-ngo

Read Full Post »

LỜI DẪN CỦA TUẦN VIỆT NAM: (22/04/2009)

Vì minh bạch là rất cần thiết, việc đầu tiên là phải nói cho rõ ai là người đã viết ra bài này.

Ông Phùng Liên Đoàn, năm nay 68 tuổi, là một khoa học gia và doanh nghiệp tại Mỹ. Ông xuất thân người làng Bát Tràng nay thuộc Hà Nội. Ông học trung học Nguyễn Trãi ở Hà Nội và Petrus Ký (nay là Lê Hồng Phong) ở Sài Gòn. Ông đi du học năm 1958 ở Mỹ, đậu Cử Nhân Vật Lý và Cử Nhân Toán tại Florida State University; và Thạc Sĩ Vật Lý và Thạc Sĩ Nguyên Tử tại Massachussetts Institute of Technology (MIT). Ông về nước làm việc năm 1964 tại Trung Tâm Nguyên Tử Đà Lạt. Ông đi Mỹ lại năm 1967, vừa làm việc vừa đi học, và đậu bằng Tiến sĩ Nguyên Tử năm 1972 tại MIT.

Từ 1967 tới 1975 Ông Đoàn đã làm việc thiết kế 4 nhà máy nguyên tử tạo điện tại United Engineers and Constructors (nay thuộc Raytheon) cho hai tiểu bang New York và South Carolina. Từ 1975 tới 1983 ông Đoàn khảo cứu năng lượng tại một Vựa Tư Tưởng có tên là Institute for Energy Analysis tại Oak Ridge Associated Universities thuộc tiểu bang Tennessee. Từ 1983 cho tới nay, ông Đoàn là Tổng Giám Đốc công ty tư vấn kỹ thuật Professional Analysis, Inc.(PAI) có cơ sở làm việc về các vấn đề nguyên tử và môi trường tại nhiều trung tâm nguyên tử khắp nước Mỹ. Ông Đoàn đã từng làm việc với nhiều khoa học gia nổi tiếng, kể cả vài vị có giải thưởng Nobel và Fermi. Ông Đoàn cũng đã có nhiều giao kèo làm việc với US Department of Energy, US National Aeronautic and Space Administration, và US Nuclear Regulatory Commission, cùng là các công ty có dịch vụ nguyên tử như General Electric, Westinghouse, Babcock and Wilcox, Asea Atom, Bechtel, Lockheed Martin, Parsons, và Wackenhut.

Ông Đoàn đã từng là hội viên của các hội khoa học như American Nuclear Society, American Association for the Advancement of Science, New York Academy of Science, và là kỹ sư có bằng hành nghề tại các tiểu bang Pennsylvania, Florida và Tennessee.

Ông Đoàn tuy ở xa Việt Nam lâu năm nhưng luôn luôn hướng về Việt Nam trong các hoạt động từ thiện suốt 40 năm qua. Ông đã giúp đồng bào qua các tổ chức như Aide à l’Enfance du Vietnam, Save the Children, Social Assistance Program for Vietnam, East Meets West Foundation, Room to Read, American Helping Asian Children, Nom Preservation Foundation, Friends of Hue Foundation, Vietnamese Culture and Science Association, Institute of Vietnamese Culture and Education, Hội Khuyến Học Nam California, Hội Đọc Sách Giải Trí Giáo Dục (Saigon), Vietnamese American Scholarship Fund, và Fund for the Encouragement of Self-Reliance. Từ năm 1988 đến nay, chương trình Khuyến Học Việt Mỹ và Khuyến Khích Tự Lập của gia đình Ông đã giúp xây dựng được nhiều trường học, mổ xẻ cho nhiều trẻ em tàn tật, mổ bệnh mắt cho nhiều người già, và đặc biệt là giúp hơn 12,000 gia đình nghèo tại Thừa Thiên Huế tự lập bằng phương pháp Grameen mà người chủ chốt là ông Mohammed Yunus mới được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 2006. Chương trình của ông Đoàn tại Việt Nam cũng được Liên Hiệp Quốc trao giải thưởng UN- HABITAT Civil Society Innovation năm 2008.

Ông bà Đoàn có hai con và ba cháu. Ông và gia đình chưa hề tham dự một tổ chức chính trị hoặc đảng phái nào.

__________

ĐIỆN NGUYÊN TỬ. GIÁO DỤC, VÀ CÔNG TÁC

PHÁT TRIỂN VIỆT NAM BỀN VỮNG THẾ KỶ 21

__________  

Phùng Liên Đoàn

Ngày 7 tháng 10, 2007

Vào đầu tháng 10, 2007, tôi hân hạnh được Vựa Tư Tưởng (Think Tank) Howard Baker mời tham dự một cuộc họp về phong trào bành trướng xây nhà máy điện nguyên tử. Người ta gọi phong trào này là sự “Tái Sinh” (Renaissance) của điện nguyên tử, bởi vì suốt 25 năm qua, các nước tân tiến Âu Mỹ đều không xây thêm nhà máy nguyên tử tạo điện, trong khi đó thì kinh tế toàn cầu đã phát triển ào ạt, thải ra nhiều khí carbonic gây hiện tượng “nhà kiếng” làm cho khí quyển của trái đất càng ngày càng nóng và đe dọa an sinh của nhân loại trong một hai thế kỷ tới.

Điện nguyên tử không xa lạ gì với tôi, bởi vì vào năm 1958 khi bắt đầu bước chân vào đại học, tôi đã quyết tâm học về ngành này. Trước đó mới 13 năm hai quả bom nguyên tử đã tàn phá Hiroshima và Nagasaki, khiến quân phiệt Nhật phải đầu hàng Mỹ; và trước đó mới chỉ năm năm, tổng thống Eisenhower của Mỹ đã tuyên bố đem năng lượng nguyên tử phục vụ hòa bình. Mỹ đã tổ chức hội nghị tại Genève năm 1955, 1958 và 1964 cho toàn thế giới biết về phương pháp dùng năng lượng nguyên tử phụng sự hòa bình, như trị liệu bệnh tật, sản xuất vật liệu tinh vi, chạy tàu ngầm và nhất là sản xuất điện. Tuy nhiên, việc xây các nhà máy điện nguyên tử một cách ào ạt vào những năm 1960s và 1970s đã gây nên một tác hại ghê gớm là các nhà máy này xây ẩu tả, không chạy tốt, quá tốn kém, không cạnh tranh được với giá dầu hỏa và khí đốt, khiến cho nhiều hãng xây cất bị lỗ vốn. Các tai nạn gây ô nhiễm phóng xạ và thiệt hại tài sản tại các nước tiền tiến như Anh (Windscale), Mỹ (Three Mile Island) và Nga (Chernobyl) đã làm quần chúng tại các nước này không tin tưởng vào những lời tuyên bố của chính phủ và các chuyên gia. Các nước khác như Trung Quốc, Israel, Ấn Độ và Hồi Quốc cũng lợi dụng các thông tin và vật liệu do các nước Anh, Mỹ, Canada tiếp tế mà làm được bom nguyên tử cho chính nước họ, gây cảm tưởng là bom nguyên tử và điện nguyên tử tuy hai nhưng là một. Đây là thời đại mà người ta gọi là Thời Đại Thứ Nhất hay Thời Đại Sơ Khai của điện nguyên tử.

Nhưng trí tuệ và nhất là lương tâm của con người đã giúp các nhà lãnh đạo của Nga và Mỹ đi tới nhiều thỏa ước là phải giảm bớt số lượng bom nguyên tử đi, nếu không chẳng bao lâu loài người sẽ tự diệt vong vì có lãnh đạo nào đó tính lầm thế cờ mà bấm nút cho hỏa tiễn phóng bom nguyên tử một cách không ý thức, rồi các nước khác trả đũa cũng bằng bom nguyên tử, làm trái đất bị bao phủ bởi bụi phóng xạ nhiều chục năm, và toàn thể sinh vật sẽ bị tiêu diệt vì không có ánh sáng mặt trời. Các nước Mỹ, Nga, Pháp, và Anh có trên 25 ngàn quả bom nguyên tử đặt sẵn trên hỏa tiễn hoặc trong kho, và như vậy triển vọng loài người tự hủy diệt rất cao. Nhờ trí tuệ và lương tâm, các nhà lãnh đạo thế giới đã đi tới thỏa ước “biến đao kiếm thành cầy bừa.” Họ thỏa thuận với nhau đem uranium và plutonium của bom làm nhiên liệu tạo điện, và nhờ vậy số lượng bom đã được từ từ giảm xuống; ngày nay chỉ còn vài ngàn trái bom tại mỗi nước. Người ta cũng đồng ý là cần phải tìm cách giảm bớt các khí thải có sức gây hiện tượng “nhà kiếng,” vì các chất khí thải này làm khí quyển của trái đất giữ nhiều chất nóng của ánh sáng mặt trời, có thể làm không khí nóng hơn 5-7 độ trong vòng 100 năm, gây tai biến to lớn về thời tiết (bão lụt, hạn hán…) và nạn lụt hồng thủy bởi sự tan rã của các băng sơn ở Bắc Cực và Nam Cực làm nước biển dâng cao. Phương pháp nhân loại phải thực hiện là giảm bớt việc dùng than đá, dầu hỏa và khí đốt, bởi vì khí thải carbonic là một thành phần quan trọng bậc nhất gây hiện tượng “nhà kiếng.” Người ta đã đồng ý được với nhau về Qui Ước Kyoto và Rio de Janeiro, yêu cầu các nước kỹ nghệ lớn giảm thiểu việc dùng nhiên liệu cùng là tăng việc sử dụng năng lượng mặt trời, năng lượng trái đất, và năng lượng nguyên tử. Các nước kỹ nghệ lớn như Mỹ và Trung Quốc đều không muốn tuân thủ yêu cầu của các qui ước trên, bởi các nguồn năng lượng đó đều đắt hơn nhiên liệu, và họ sợ rằng kinh tế của họ sẽ bị suy thoái. Tuy nhiên, đến năm 2006, thì Tối Cao Pháp Viện của Mỹ đã khuyến cáo để chính phủ Mỹ cũng phải tuân theo gương dẫn đầu bởi Liên Quốc Âu Châu và Nhật, trong khi các nước dẫn đầu phong trào bảo vệ khí quyển đang cố gắng tạo lập “thuế carbonic” đánh vào hàng hóa xuất cảng của các nước còn ích kỷ như Trung Quốc và Ấn Độ áp lực họ phải dùng bớt nhiên liệu đi. Hiện Trung Quốc thải 6.2 tỉ tấn CO2 ra khí quyển mỗi năm, ngang hàng với Mỹ, và hai nước này thải 40%-50% toàn thể CO2 trên thế giới.)

Hội nghị điện nguyên tử vào đầu tháng 10 năm 2007 tại Washington do Vựa Tư Tưởng Baker tổ chức chỉ mời khoảng 50 người. Đó là những người có ảnh hưởng lớn hoặc hiểu biết nhiều về năng lượng nguyên tử. Số người tham dự gồm 8 nghị sĩ làm luật của Mỹ; chủ tịch các đại công ty xây cất nhà máy nguyên tử của Mỹ, Pháp và Nhật; bộ trưởng bộ Năng Lượng và chủ tịch Cơ Quan Qui Luật Nguyên Tử; chủ tịch các hãng làm điện đang cần xây cất thêm nhà máy điện nguyên tử; và đặc biệt có cả các vị thủ lãnh nguyên tử của Pháp và Nhật. Sở dĩ tôi đựoc mời là vì tôi có quen với thượng nghị sĩ Howard Baker từ nhiều năm (nay đã về hưu sau khi làm đại sứ Mỹ tại Nhật), quen biết với các người làm việc tại Vựa Tư Tưởng Baker, và cũng vì tôi đã từng tham dự nhiều cuộc khảo cứu về điện nguyên tử và hiện tượng “nhà kiếng” từ những năm 1970s và 1980s. Đặc biệt tôi và một vài đồng nghiệp có viết một quyển sách với nhan đề là “Thời Đại Thứ Hai của Năng Lượng Nguyên Tử” xuất bản năm 1985, mà người viết chính là Alvin Weinberg, một khoa học gia được coi như là thủ lãnh trí tuệ bậc nhất của ngành nguyên tử áp dụng vào đời sống. [1]

Các cuộc thảo luận của hơn 50 người tham dự hội nghị xoay quanh các đề tài như:

(1) trong vòng 25 năm nữa sẽ có bao nhiêu nhà máy điện nguyên tử được xây cất, và chúng sẽ giảm ô nhiễm môi trường và hiện tượng “nhà kiếng” là bao nhiêu;

(2) làm cách nào để có thể xây cất nhà máy điện nguyên tử cho các quốc gia đang phát triển mà không mắc vào hai vấn nạn lớn, đó là không cho phép họ làm bom nguyên tử và giúp họ điều hành được chất thải phóng xạ một cách an toàn;

(3) giá thành của điện nguyên tử sẽ là bao nhiêu, và làm cách nào các công ty có đủ tiền để xây một nhà máy đáng giá 5 tỉ USD mà chỉ 10 năm sau ngày quyết định mới có thể sản xuất được kilowatt điện đầu tiên; và

(4) làm sao tăng trưởng được đội ngũ chuyên gia để tiếp tục sản xuất điện nguyên tử một cách xuất sắc như ngày nay, với các nhà máy chạy suốt đêm ngày, sản xuất 16% tổng số điện trên thế giới nghĩa là nhiều điện hơn bất cứ quốc gia nào khác trừ Mỹ.

Ông Shunsuke Kondo, chủ tịch Nguyên Tử Lực Nhật, người trẻ hơn tôi 2 tuổi, có nhắc tới Việt Nam một lần, trong nội dung “một vài nước đang phát triển như Việt Nam cũng đang muốn xây nhà máy điện nguyên tử.” Trong phát biểu này có hàm ý là các nước nhỏ và nghèo thì phải “coi chừng.” Coi chừng, bởi vì các nước đang phát triển này chưa khai thác hết những nguồn nhiên liệu bản xứ vừa rẻ tiền vừa hợp với đà kinh tế còn rất nhỏ chưa có ảnh hưởng gì tới việc gây ô nhiễm ào ạt của các nước lớn. Coi chừng, bởi vì nhà máy điện nguyên tử rất đắt tiền (5 tỉ USD hay 5000 USD/KW), làm sao một nước nhỏ và nghèo có thể đủ tiền để xây nếu không làm nhiều dự án khác bị trùn lại. Coi chừng, bởi vì các nước nhỏ và nghèo này không có một hạ tầng cơ sở tốt để phục vụ các việc xây cất tại địa phương, do đó từ con ốc đặc thù đến linh kiện kiểm soát chất phóng xạ, cái gì cũng phải nhập cảng. Và nếu sau này nếu có gì trục trặc thì sẽ phải “đóng cửa” chờ đợi vật liệu hoặc linh kiện đem từ ngoài vào, một việc có thể làm tê liệt mọi hoạt động vốn đã rất mong manh của quốc gia. Coi chừng, bởi vì các nước nhỏ và nghèo không có một đội ngũ làm việc thật qui củ và tốt, có thể gây tai nạn bất ngờ mặc dầu họ có thể là những người rất tài giỏi về toán và vật lý, nhưng việc điều hành một nhà máy nguyên từ không những cần tài giỏi mà còn cần có kinh nghiệm và nguyên tắc làm việc hết sức nghiêm túc.

Từ vấn đề “coi chừng” trên, tôi nghĩ đến vấn đề giáo dục, một phong trào đang được bàn cãi rất sôi nổi trong nhiều tầng lớp người Việt Nam, trong nước cũng như ngoài nước. Một mặt, bộ trưởng Giáo Dục Nguyễn Thiện Nhân là một lãnh đạo trẻ, có hiểu biết thực tế về nền giáo dục của các nước tiền tiến cũng như của các nước láng giềng, để biết rằng giáo dục của ta cần phải được sửa đổi mạnh bạo thì mới mong đáp ứng được nhu cầu phát triển. Một mặt khác, ngân sách giáo dục của ta rất thấp so với các nước láng giềng và các nước tiền tiến. Chưa ai cho tôi biết ngân sách giáo dục của nước ta là bao nhiêu, nhưng có người nói: “Tính phần trăm thì ngân sách giáo dục của ta cao hơn cả Trung Quốc!” Nhưng tính phần trăm sao được, khi ta bắt học sinh từ mẫu giáo lên đến đại học đều phải đóng học phí, và học phí đó chỉ vài đô la mỗi tháng nhưng nhiều người dân vẫn không đủ sức và vì thế, nạn “không đi học” của ta là rất cao. Phần trăm sao được khi đội ngũ giảng huấn của ta còn quá thiên ngoại, học trình của ta còn quá lý thuyết khiến người học ra trường không tìm được việc làm thực tế. Ta thường có khuynh hướng duy ý chí, chủ quan cho rằng người Việt Nam vốn rất tài giỏi và thông minh, vì vậy ta nhất định phải có một đại học trong số 200 đại học giỏi nhất thế giới và trong vòng 20 năm nữa ta nhất định phải đào tạo được 20,000 tiến sĩ. Môt số trí thức lại có đề nghị Việt Nam thành lập một trường đại học chuyên nghiệp dùng tiếng Anh làm chuyển ngữ, để ta dễ hội nhập với đà tiến triển quốc tế và dễ đào tạo cán bộ có tầm hiểu biết cao để làm việc với doanh thương sử dụng kỹ thuật cao.

Theo tôi, các ý kiến trên và nhiều ý kiến khác nữa cần phải được bàn luận thật nghiêm chỉnh và nhanh chóng vì thời gian không chờ đợi ta. Ta phải nghĩ đến việc phát triển đất nước một cách bền vững suốt thế kỷ 21 trong khả năng của ta, chứ không thể chỉ phản ứng theo nhu cầu ngắn hạn hoặc duy ý chí. Kiến quốc là một vấn đề mà người Việt Nam anh hùng nhưng nhiều tang tóc của chúng ta có rất ít kinh nghiệm, bởi vì ta có chiến tranh suốt chiều dài của lịch sử, và khi đất nước được an bình đôi chút giữa hai chiến tranh, thì các vị vua quan của ta lại quá thủ cựu, không học kinh nghiệm của những nước tiên tiến và không dùng trí tuệ Việt Nam để khai triển những việc thực tế quanh ta giúp cho người dân được càng ngày càng có ăn học nhiều hơn, có công việc lương cao hơn, có tự do phát triển cá nhân, và như vậy là được sung sướng hạnh phúc hơn.

Một quốc gia giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh phải là một quốc gia trong đó hầu hết người dân được ăn học tốt, có công việc làm tốt, có tự do mưu sinh, được luật pháp bảo vệ tốt, và sống tốt với người đồng loại. Ta không thể giầu mạnh và người dân không thể hạnh phúc nếu ta chỉ có một số lãnh đạo duy ý chí, một số quan chức thừa hành với bằng cấp “tiến sĩ”dựa trên sự phát triển của người nước ngoài rất xa với thực tế Việt Nam, và số đông 80 triệu người với dân trí ngang tầm tiểu học. Vì thế, khi ta nói “giáo dục” là quan trọng cho tương lai, thì ta phải định nghĩa rõ ràng hơn, là giáo dục những gì, giáo dục thế nào, giáo dục bao lâu, và giáo dục cho bao nhiêu người dân. Quản Di Ngô sống trước cả đức Khổng Tử thời Đông Châu Liệt Quốc đã nói rất đúng, cho rằng kế hoạch làm nước giàu mạnh là phải “trồng người,” và việc trồng người phải là “kế hoạch trăm năm.” Vì thế, tôi đề nghị ta phải nghĩ tới việc dùng ngân sách của quốc gia và đi vay thêm tiền để triệt để đào tạo công dân từ mẫu giáo trở lên, với trường sở tốt, giáo viên tốt, học trình khuyến khích suy nghĩ và làm việc thực tế. Nếu học sinh của ta được đào tạo tốt, được khuyến khích năng động và tự lập từ thuở lọt lòng cho đến 20 tuổi, thì sau 5 thế hệ tức là 100 năm, nước Việt Nam sẽ có hơn 90% người dân có giáo dục vững vàng để thành các thành phần chỗ nào cũng tốt trong xã hội. Giáo dục căn bản vững vàng này cần hai đại bộ phận quan trọng áp dụng sát sao vào đời sống hàng ngày của xã hội ta chứ không phải là học vẹt. Đó là: văn hóa (gồm tất cả những ngành học làm trí tuệ được mở mang, hiểu biết được quảng bác) và kinh tế (gồm tất cả những ngành học làm đời sống vật chất được sung túc, nhanh nhẹn, hiệu suất cao.)

Có người nói, như vậy là ta không đáp ứng được với nhu cầu kinh tế hiện nay. Thưa rằng, nhu cầu này có thể tự thị trường giải quyết, bởi vì các doanh nghiệp Việt Nam trong nước cũng như ngoài nước có thể cộng tác với những người có nhiều kinh nghiệm thực tế và có tiền, mở các lớp huấn nghệ đào tạo công nhân một cách đặc biệt và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu kinh tế ngắn hạn của doanh thương và lợi nhuận trước mắt. Chính phủ chỉ cần làm chính sách thông thoáng và tổ chức kiểm soát phẩm chất đồng nhất, nhậy bén, công bằng, không tri trệ, hối lạm. Ngay chi phí kiểm soát như vậy cũng có thể giải quyềt bằng phương pháp kinh tế thị trường.

Trung Tâm Việt Nam Phát Triển Bền Vững Thế Kỷ 21 phải dùng mọi phương pháp khoa học để thúc đẩy việc trồng người; hoạch định chính sách bền vững; dùng mọi bài học trên thế giới một cách rất Việt Nam để phát triển người Việt Nam và đất nước Việt Nam theo tài nguyên, môi trường và mục đích đặc thù Việt Nam. Các hoài bão to lớn như “điện nguyên tử,” “đại học nổi tiếng nhất thế giới,” “20 ngàn tiến sĩ,” “ khảo cứu khoa học cao siêu…” là những vấn đề cần phải được bàn thảo nghiêm túc, nhũn nhặn (ta phải biết ta là ai) với tâm niệm là “làm cách nào, với khả năng ít ỏi của ta, để nước Việt Nam nhanh chóng được dân giàu, nước mạnh, xã hội công bình, dân chủ, văn minh.” Viễn tượng có thể là vào năm 2100, 100% trẻ em và người già được chăm sóc tốt, 90% người dân đạt được mức lợi tức hàng năm trên 10,000 USD/người (tính theo giá USD năm 2007) và 70% người dân được học hết lớp 12 trung học. Đây là kết quả đã có tại hầu hết các nước văn minh ngày nay. Và viễn tượng này phải có lộ trình đi từng bước khả thi, như kế hoạch ngũ niên có kiểm chứng bởi những thành phần trí tuệ độc lập để tránh nạn “mèo khen mèo dài đuôi.” Lộ trình ta hoạch định chắc chắn sẽ có nhiều nan giải, chắc chắn sẽ có nhiều sai lầm, nhưng ta có thể dùng kinh nghiệm, trí tuệ và tâm niệm kiến quốc để sửa sai hàng năm. Như vậy người dân và các lãnh đạo tương lai sẽ luôn có chuẩn đich, giống như thuyền trưởng và khách đồng hành đều nhìn thấy được hải đăng để chung sức chèo lái đi tới bến bờ là Giấc Mơ Việt Nam.

Ta không thể nói hoài mà không làm. Ta không thể tranh cãi mãi về quá khứ mà không nghĩ tới tương lai thực tế và khả thi cho con cháu của chúng ta. Ta không thể chờ cho những người Việt sáng suốt như Nguyễn Trường Tộ chết đi rồi mới vinh danh nhưng vẫn không thực hiện ý kiến của họ. Ta cần bắt đầu làm việc với các phương tiện và hiểu biết mới, một sự kiện mà tổ tiên ta đã không có được bởi vì các cụ không may mắn có những kiến thức, phương tiện và cơ hội như chúng ta ngày nay.

[1] Weinberg, Spiewak, Barkenbus, Livingston and Phung, The Second Nuclear Era: A New Start for Nuclear Power. Praeger Publishers, 1985 

Phùng Liên Đoàn

__________

nguồn:  http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/dien-nguyen-tu-giao-duc-va-cong-tac-phat-trien-viet-nam-ben-vung-the-ky-21

Read Full Post »

ĐIỆN HẠT NHÂN, VÌ SAO PHẢI VỘI?

__________

GS Phạm Duy Hiển,

Tuổi Trẻ Chủ Nhật ngày 11-01-2004.

Một ngày không xa, những người VN giàu trí tưởng tượng ấn tay vào công tắc điện sẽ nghe âm vang giai điệu của phản ứng dây chuyền từ nhà máy điện hạt nhân (ĐHN) trên bờ biển Ninh Thuận, nơi mà giờ đây đang còn là một vùng hoang mạc khô cằn, quanh năm cháy nắng.

Trước đây ít lâu, cái thời khắc lịch sử đó được dự kiến vào năm 2017. Công chúng còn chưa hết phân vân tại sao ta xây nhà máy ĐHN vào lúc mà mấy nước văn minh như Đức, Thuỵ Điển… lại phải lo đưa chúng xuống nghĩa địa, thì mới đây, từ cuộc trình diễn do Diễn đàn Công nghiệp nguyên tử Nhật Bản tổ chức tại VN, cái thời khắc đó lại còn được bắn vọt lên năm 2012. Thế nghĩa là còn chưa đầy 9 năm nữa!

Vị trưởng đoàn Nhật tại cuộc trình diễn nói trên cảnh báo: “Việt Nam cần phát triển ĐHN để nâng cao mức sống của dân chúng. Đang từ một nước xuất khẩu năng lượng, sắp đến các bạn sẽ phải nhập khẩu nếu không sớm xây dựng ĐHN”.

Đây đúng là kinh nghiệm của nước Nhật, vốn từ lâu đã cạn kiệt các nguồn nhiên liệu nên phải nhập khẩu than dầu từ khắp nơi. Trong hoàn cảnh đó còn gì tuyệt diệu bằng ĐHN, một giải pháp sống còn duy nhất chẳng những bảo đảm an ninh năng lượng cho nền kinh tế khổng lồ của Nhật mà còn tránh cho Trái đất nóng lên do hiệu ứng nhà kính.

Từ kinh nghiệm của một nước công nghiệp hàng đầu

Nhưng vị trưởng đoàn lại không nói hết các kinh nghiệm khác của Nhật. Những cuộc thăm dò dư luận về ĐHN ở Nhật cho thấy số người lắc đầu vẫn luôn nhiều hơn. Nhật Bản là một xã hội đầy nhạy cảm sau thảm họa Hiroshima và Nagasaki. Nhưng đừng nghĩ rằng những trải nghiệm đầy mặc cảm đó đã chi phối thái độ của họ đối với ĐHN. Người Nhật văn minh, sáng suốt vẫn lắc đầu bởi họ được chứng kiến trong những năm gần đây bao nhiêu sự cố, và không tin rằng ĐHN là an toàn đến mức như người ta thường quảng cáo.

Trước hết là tai nạn hoả hoạn do chất tải nhiệt natri ở lò phản ứng Monju xảy ra năm 1995 làm toàn bộ phương hướng lò nơtrôn nhanh hết sức tốn kém của Nhật bị lao đao. Lò nơtrôn nhanh có khả năng vừa cung cấp điện năng vừa sản sinh ra nhiều plutonium hơn là lượng uranium đã cháy, bởi thế nó là giải pháp tuyệt diệu trong chiến lược an ninh năng lượng lâu dài của Nhật. Biết thế, nhưng vừa qua Toà án tối cao Nhật vẫn phán quyết không cho lò Monju hoạt động trở lại (The Japan Times, 28-1-2003).

Sau vụ Monju là tai nạn xảy ra ở nhà máy xử lý nhiên liệu Tokaimura năm 1999 do những sai sót hết sức ngớ ngẩn đã làm chết hai kỹ thuật viên, 600 người bị chiếu xạ, 320.000 người dân địa phương được yêu cầu không ra khỏi nhà và sáu kỹ thuật viên bị phạt tù với tội danh vi phạm luật an toàn hạt nhân.

Trước những sự kiện đó một số người Nhật vẫn có thể chặc lưỡi: đi máy bay, tàu hoả còn chết khối người, huống hồ là ĐHN. Nhưng đến khi vụ bê bối bị phát giác hồi tháng tám năm ngoái ở Tokyo Electric Power Co. (TEPCO), tập đoàn sản xuất điện lớn nhất của Nhật, thì niềm tin của dân vào ĐHN mới suy sụp thảm hại.

Từ cuối thập kỷ 1980 TEPCO đã phát hiện vết nứt ở những mối hàn xung yếu nhất trong hệ thống cung cấp nước áp lực cho vùng hoạt của một số lò phản ứng. Nhưng họ đã cố tình giấu nhẹm, chẳng những không chịu xử lý mà cũng không báo cáo trung thực lên các cấp thẩm quyền. Trong các báo cáo thường kỳ lên cấp trên họ đã làm hồ sơ giả, bịa đặt số liệu kiểm tra phù hợp với qui chế an toàn. Khi có đoàn thanh tra định kỳ đến, họ lén điều chỉnh các van áp lực để đạt được những thông số hợp lý.

Khi vụ việc bị phát giác, công luận la ó, chủ tịch TEPCO và một số cộng sự phải từ chức. Đến tháng 4-2003 tất cả 17 lò phản ứng của TEPCO với tổng công suất điện hơn 16.000 MW (gấp 8 lần Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình) buộc phải đóng cửa, mặc cho Tokyo bị đe doạ thiếu điện trầm trọng trong mùa hè vừa qua.

Chạy theo lợi nhuận, bất chấp nguyên tắc (bất cứ một trục trặc nhỏ nào trong hệ thống tải nhiệt của nhà máy ĐHN đều phải được xử lý và khắc phục kịp thời), TEPCO đã làm mất lòng tin của công chúng. Hậu quả là tất cả các lò phản ứng của TEPCO đều phải ngừng hoạt động để kiểm tra, chờ cấp giấy phép mới, kể cả những lò đang hoạt động bình thường cũng bị vạ lây. TEPCO phải cho chạy lại các nhà máy nhiệt điện cũ và mua điện từ các hãng khác để bù vào chỗ thiếu hụt. Thiệt hại lên đến nhiều tỉ đôla (The Japan Times, May 21, 2003).

Thế mà người ta cứ quảng cáo rằng ĐHN an toàn và rẻ lắm.

Những chuyện trên đây xảy ra tại một cường quốc công nghiệp với hệ thống pháp luật nghiêm ngặt càng làm cho công chúng khó tin vào các quảng cáo đó. Nhất là trong bối cảnh phải đối phó với nạn khủng bố toàn cầu mà ĐHN là những mục tiêu lý tưởng. Quảng cáo ĐHN là cách đi vay niềm tin của công chúng.

Nhưng vay thì phải trả. TEPCO chẳng những không trả được mà còn làm cho công chúng nghi ngờ rằng họ liên tục bị lừa dối trong nhiều năm trời. Theo kết quả thăm dò dư luận của Asahi Shimbun ngày 9-10-2002, sau vụ bê bối ở TEPCO, số dân Nhật sợ ĐHN đã tăng vọt lên đến 86%. Tệ hại hơn là họ không tin ngay cả lời giải thích của chính phủ trung ương cho rằng các vết nứt trong lò phản ứng của TEPCO không có gì đáng ngại.

Trông người mà nghĩ đến ta. Cứ theo thông tin từ buổi trình diễn của Diễn đàn Công nghiệp nguyên tử Nhật Bản nói trên thì câu chuyện ĐHN ở VN xem như đã an bài, mặc dù bao nhiêu phân tích xác đáng cho rằng ta không nên quá vội vàng. Thậm chí nhiều chuyên gia nước ngoài còn hết sức ngạc nhiên khi nghe tin VN sắp xây dựng nhà máy ĐHN. Tuy chưa thấy có công bố chính thức nào của Nhà nước, song bàn thêm liệu có ích gì? Lời khuyên của người xưa “đo đủ ba lần rồi hãy cắt” xem ra chỉ là một hi vọng mong manh.

Đến thực trạng của VN

Những dòng viết tiếp dưới đây chẳng qua chỉ là phản ứng tự nhiên trước lập luận kỳ quặc của vị khách nước ngoài được tung lên báo chí sau vụ trình diễn của Diễn đàn Công nghiệp nguyên tử Nhật Bản. Lời cảnh báo của vị khách gồm hai vế: 1) theo đà tăng trưởng hiện nay, sắp đến VN phải nhập khẩu năng lượng; 2) để thoát khỏi nguy cơ này VN cần xây dựng ngay nhà máy ĐHN.

Trước hết cứ tạm chấp nhận vế thứ nhất là đúng và nhập khẩu năng lượng đang là nguy cơ đe doạ chúng ta. Ta sẽ thấy ngay hai chuyện kỳ quặc. Thứ nhất, khi hối thúc VN làm ĐHN để tránh nhập khẩu năng lượng thì chính vị khách đó đã bày cho chúng ta cách nhập khẩu năng lượng tệ hại nhất. VN khác với Nhật. Có bao nhiêu bộ phận trong nhà máy ĐHN với hơn bốn tỉ đôla đó là made in Vietnam? Đến bao giờ VN mới tự túc được nhiên liệu, mà có tự túc được thì nhiên liệu cũng chỉ là một thành phần rất nhỏ trong toàn bộ chi phí cho nhà máy ĐHN. Thậm chí đến chuyên gia kỹ thuật, chắc chắn ta cũng phải nhập nốt.

Thứ hai, nguy cơ phải nhập khẩu năng lượng vào năm nọ tháng kia không thể xem là yếu tố quyết định thời điểm phải xuất hiện ĐHN. Đối với một nước như VN, các số liệu cung cầu năng lượng chỉ nên xem như thông tin có tính chất tham khảo trong việc quyết định thời điểm xây dựng nhà máy ĐHN. Yếu tố quyết định là cơ sở hạ tầng về an toàn bao gồm hệ thống luật pháp hạt nhân, đội ngũ chuyên gia và văn hoá quản lý công nghiệp.

Đội ngũ chuyên gia ĐHN đủ khả năng xét duyệt các phương án thiết kế, xây lắp và làm chủ trong vận hành, xử lý các tình huống sự cố (chứ chưa nói đến khâu chế tạo công nghệ) hầu như chúng ta chưa có. Và triển vọng trong thời gian tới cũng không mấy sáng sủa. Làm sao có được chuyên gia về ĐHN đang là bài toán đầy thách thức lại đòi hỏi nhiều thời gian. Hệ thống pháp lý hạt nhân của chúng ta rất yêu kém, thậm chí bị coi thường. Minh chứng là lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt sắp kỷ niệm 20 năm mà vẫn chưa có giấy phép vận hành. Chất phóng xạ do lò sản xuất được sử dụng trong các bệnh viện cũng chưa có giấy phép. Chẳng ai cấm, nhưng cũng chưa có ai ký.

Nguy cơ thật sự ở đâu?

Không ai có lỗi về khoảng cách khá lớn giữa trình độ phát triển hiện nay của chúng ta với các nước đang có ĐHN. Đó là chuyện lịch sử mà những tiến bộ vượt bậc trong mấy năm qua vẫn chưa thu ngắn lại được. Nhưng chúng ta sẽ rất có lỗi nếu chỉ lo quảng cáo cho ĐHN mà không tự nhận biết mình là ai, không nỗ lực bắt tay ngay vào việc đào tạo đội ngũ chuyên gia và xây dựng hệ thống pháp lý.

Chúng ta lại cần có thời gian để thử thách cái hệ thống mà chúng ta sắp dựng nên. Chính trình độ yếu kém về tri thức công nghệ, quản lý công nghiệp và hệ thống pháp lý sẽ là mảnh đất lý tưởng để tham nhũng, hối lộ và nạn làm dối, làm ẩu hoành hành. Mà một khi nhốt chung ba quái vật ấy lại với ĐHN thì đó mới thật sự là mối đe doạ cho đất nước. Chính vì thế mà người dân Philippin thà vứt đi mấy tỉ đôla đóng thuế của họ xuống biển chứ không chịu cho nhà máy ĐHN đã xây xong đến 90% của họ hoạt động. Chia tay với ĐHN, Philippin quyết tâm theo đuổi chính sách lấy năng lượng tái tạo làm nền tảng, đặc biệt sẽ phấn đấu trở thành nước sản xuất địa nhiệt lớn nhất thế giới.

Trở lại bàn tiếp lập luận của vị khách trong vế thứ nhất. Lại cứ tạm chấp nhận là VN sắp phải nhập khẩu năng lượng như vị khách tiên đoán. Thì đã làm sao? Bao nhiêu nước, trong đó có Nhật, đều phải nhập khẩu năng lượng mà vẫn giàu có văn minh. Tài nguyên dồi dào như Trung Quốc mà chỉ riêng ba quí đầu năm 2003 phải nhập khẩu đến hơn 50 tỉ đôla về năng lượng (South China Morning Post, 10-12-2003). Nhưng ai dám đoan chắc với dân chúng rằng sau mười năm nữa VN sẽ phải nhập khẩu năng lượng? Mà lại để cho người nước ngoài nói thay ta rồi tung lên báo chí?

Nhiều người tin rằng tiềm năng về than, dầu mỏ, khí đốt của ta cộng với các giải pháp tiết kiệm năng lượng vẫn còn đủ để chưa cần đến ĐHN ít nhất là trước năm 2030. Lúc đó công nghệ ĐHN trên thế giới đã bước lên một quĩ đạo hoàn toàn mới với các lò phản ứng có đặc điểm an toàn nội tại, rất ít phụ thuộc vào sai sót của nhân viên vận hành. Nhập cuộc vào lúc ấy đâu có muộn. Mà người dân lại khỏi phải mua nỗi lo âu bằng cái giá quá đắt. “Dục tốc bất đạt”, lời khuyên của người xưa thật là chí lý./.

Phạm Duy Hiển

__________

nguồn: Tuổi Trẻ Chủ Nhật 11/01/2004

Dẫn theo dữ liệu của Khối 8406: http://www.8406vn.com/SUB_TaiLieu/CuongVongNguyenTu2.shtml

Read Full Post »

ĐHN SÁT BIÊN GIỚI ẢNH HƯỞNG GÌ ĐẾN VN?

__________

GS Nguyễn Khắc Nhẫn

Trung Quốc vừa thông qua dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại Phòng Thành (Quảng Tây), cách biên giới nước ta (Móng Cái, Quảng Ninh) khoảng 60 km. Việc này có ảnh hưởng như thế nào đến Việt Nam? Mời độc giả đọc bài viết của GS Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện hạt nhân Đà Lạt.

Trung Quốc đang xây dựng nhà máy điện hạt nhân (NMĐHN) tại Phong Thành, trên bờ biển Vịnh Bắc Bộ, cách thị xã Mông Cái khoảng 60 km về phía Đông. Dự kiến tại đây sẽ có sáu lò phản ứng (giai đọan đầu hai lò) loại nước ép, công suất mỗi lò 1080 mê ga oát (MW), theo công nghệ CPR-1000 thuộc thế hệ II+, nguyên bản từ công nghệ Pháp – Mỹ đã hoàn thiện từ những năm tám mươi thế kỷ trước, nhưng được Trung Quốc nội địa hóa đến hơn 80%. Dự kiến nhà máy sẽ phát điện vào năm 2014.

Trung Quốc bắt đầu vận hành NMĐHN từ năm 1994, tính đến tháng 4 năm 2010 đã đưa vào hoạt động 11 lò với tổng công suất 8500 MW. (Xin lưu ý: Việt Nam ta chủ trương từ 2020 đến 2030 sẽ đưa 13 lò vào hoạt động với tổng công suất 15000 MW!). Mặc dù là một cường quốc hạt nhân, nhưng vì đi sau nên họ nhập hầu hết các loại công nghệ nguồn từ Mỹ, Nga, Pháp, Canada để học hỏi những cái hay từ từng công nghệ, đào tạo đội ngũ nhân lực đa dạng, qua đó chọn một công nghệ thích hợp để tìm cách nội địa hóa rồi tiến lên thương mại hóa thành công nghệ của mình.

CPR-1000 hiện đang trở thành dòng công nghệ chính, hàng chục lò nữa đang và sẽ được xây dựng. Nhưng rồi đây họ sẽ nội địa hóa công nghệ tiến tiến hơn thuộc thế hệ III theo kiểu AP-1000 của Westinghouse, Mỹ. Ngoài ra, từ hàng chục năm nay họ đang theo đuổi một công nghệ hoàn toàn bản địa theo kiểu lò phản ứng nhiệt độ cao làm nguội bằng khí.

Một góc nhà máy điện hạt nhân Điền Loan, Trung Quốc. Ảnh SGGP.

Cách nội địa hóa ĐHN của Trung Quốc rất đáng học tập. Đó là tính nghiêm túc trong phát triển khoa học công nghệ, quán triệt từ trên xuống dưới, nói đi đôi với làm.

Trung Quốc đã, đang và sẽ xây năm, sáu chục NMĐHN, tập trung nhiều nhất ở tỉnh Quảng Đông. Phong Thành là nhà máy đầu tiên thuộc khu tự trị dân tộc Choang, tỉnh Quảng Tây. Sắp đến sẽ có nhà máy trên đảo Hải Nam. Với một mật độ lò phản ứng dày đặc như vậy nằm trên đầu nguồn các khối khí lạnh lục địa thường xuyên kéo xuống nước ta về mùa đông, chuyện này quả là một nỗi lo nữa, tuy mới xuất hiện, nhưng ở tầm quốc gia, và sẽ rất dai dẳng. Đó là chưa nói đến trường hợp chất phóng xạ bị dò rỉ ra Vịnh Bắc bộ, ngay trước cửa ngõ của chúng ta.

Ta hãy xem về mùa đông chất phóng xạ phát ra từ NMĐHN Phong Thành sẽ “chọn” con đường đi nào? Trở vào lục địa Trung Quốc hay kéo xuống phía Nam? Trung Tâm Nghiên cứu Đại dương và Khí quyển NOAA của Mỹ sẽ giúp ta tính toán các đường đi này. Hình minh họa ở đây được tính cho sáu tháng mùa đông năm 2006, mỗi tháng khoảng 15 đường. Rõ ràng, về mùa đông Việt Nam “hứng” khí phóng xạ từ NMĐHN Phong Thành nhiều hơn Trung Quốc. Về mùa hè, khí phóng xạ có xu hướng đi vào lục địa nhiều hơn. Nhưng nên nhớ rằng do khí quyển phát tán mạnh hơn về mùa hè nên các sol khí phóng xạ tiêu tan rất nhanh. Ngược lại, về mùa đông sol khí phóng xạ sống lâu hơn nhiều.

Trên hình minh họa chỉ mới là đường đi (trong hai ngày) của các khôi khí xuất phát từ NMĐHN, nhưng chất phóng xạ do các khối khí ấy mang theo trên đường đi nhiều hay ít còn tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố khác, đặc biệt là cường độ phát thải từ nhà máy trong trường hợp hoạt động bình thường hay khi xảy ra sự cố. Xin nói ngay rằng nếu nhà máy hoạt động bình thường, thì trên nguyên tắc, khí phóng xạ không ảnh hưởng nghiêm trọng, ngay đến người dân sống gần nhà máy như ở Mông Cái. Nhưng khi xảy ra sự cố ở các cấp độ khác nhau, vấn đề có thể sẽ hoàn toàn khác!

Cách nói như trên đủ thận trọng để có thể hợp ý với nhiều người trong giới hoạch định chính sách năng lượng lẫn các công ty kinh doanh ĐHN, song lại quá đơn giản và thiếu chính xác về mặt khoa học. Trên thực tế, các chất phóng xạ rơi lắng xuống đất, xuống biển, tích tụ lại trong các lớp trầm tích, mùn hữu cơ, động vật phù du…, nơi khởi đầu các chuỗi thức ăn cho con người và động thực vật. Một năm, một lò phản ứng… có thể chưa đáng lo!. Nhưng hàng chục năm với hàng chục nhà máy thì hậu quả sẽ khác hẳn, chẳng những có thể đo đếm được bằng thiết bị, mà còn tạo ra nguy cơ cho sức khỏe con người và nền kinh tế.

Có những chất phóng xạ thoát ra từ NMĐHN sẽ sống rất lâu, sau 30 năm mới tự phân rả một nửa, như Cs-137 (tích lũy vào mô thịt), Sr-90 (tích lũy vào mô xương). Chất Pu-239 còn sống lâu hơn, đến hàng nghìn năm. Chúng sẽ xâm nhập vào nguồn nước, thực phẩm, rau quả, hải sản, vùng bị ảnh hưởng nặng nhất là ven biển Vịnh Bắc bộ (xem hình). Về kinh tế, nguy cơ sớm nhất có thể xảy ra với một số mặt hàng lương thực thực phẩm xuất khẩu, vì ở đây tiêu chuẩn về độc chất phóng xạ vốn rất gay gắt.

Việt Nam cần phải làm gì?

Trước hết, phải xây dựng nghiêm túc hệ thống ứng phó khẩn cấp quốc gia để không bị động trong trường hợp xảy ra sự cố từ các NMĐHN Trung Quốc. Luật Hạt nhân đã quy định như thế. Nhưng khi soạn thảo và thông qua luật này, chắc nhiều người chỉ nghĩ đến NMĐHN của chính mình. Ngờ đâu chất phóng xạ không hề biết khái niệm biên giới quốc gia, và giờ đây ta phải thực thi nó không phải vì chính ta gây ra chuyện, mà do tác động từ bên kia biên giới.

Đừng để những người thích tuyên truyền “ĐHN an toàn tuyệt đối” làm cho chúng ta lơ là, mất cảnh giác. Cứ cho là những tính toán xác suất về sự cố NMĐHN đúng đi nữa, thì nên nhớ rằng với xác suất xảy ra sự cố không bé của các lò thế hệ thứ hai, ta còn phải nhân nó thêm lên năm, sáu chục lần do có chương trình phát triển ĐHN ồ ạt ở ngay bên kia biên giới nước ta trong vài thập kỷ tới. Mà trong cách tính xác suất đó chỉ mới xét các yếu tố kỹ thuật, chưa hề kể đến tính “ẩu” của con người.

Thứ hai, phải xây dựng nghiêm túc hệ thống quan trắc phóng xạ môi trường để theo dõi thường xuyên tác động của các NMĐHN Trung Quốc đến không khí, nước, đất, lương thực, rau quả, hải sản ở nước ta, nhất là miền Bắc. Việc này có thể đưa vào chương trình hợp tác khoa học công nghệ với Trung Quốc vì nó thiết thân với chính Trung Quốc. Với tư cách là nước thiết kế công nghệ và vận hành nhà máy, hơn ai hết Trung Quốc phải quan tâm đặc biệt đến tác động đối với môi trường, cho dù môi trường ấy nằm ngoài lãnh thổ của họ.

Thứ ba, ta phải mời Trung Quốc ngồi lại thương thảo về tác động các NMĐHN của họ đối với nước ta. Việc này có thể thu xếp trong khuôn khổ pháp lý dựa trên cơ sở các hiệp định quốc tế về “Thông báo sớm các sự cố hạt nhân”, về “Trách nhiệm dân sự khi bị thiệt hại về hạt nhân”… do Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế IAEA chủ trì có chữ ký của cả hai nước.

Nhưng để đủ sức nặng cho các cuộc thương thảo, giờ đây chính là lúc ta hãy cùng với họ đặt MƯỜI SÁU CHỮ VÀNG lên bàn hội nghị.

__________

nguồn: Vietnamnet, (23/07/2010)

http://www.tuanvietnam.net/2010-07-23-dien-hat-nhan-sat-bien-gioi-anh-huong-gi-den-viet-nam

Read Full Post »

SUY NGẪM BÀI HỌC CHERNOBYL SAU 26 NĂM

__________

GS. Nguyễn Khắc Nhẫn

Gửi cho BBC Việt ngữ từ Pháp – Cập nhật: 08:16 GMT – chủ nhật, 29 tháng 4, 2012

Nhà máy điện hạt nhân Chernobyl gặp sự cố gây thảm họa vào ngày 26/4/1986

Thảm họa kinh hoàng Chernobyl, xếp hạng 7 theo thang INES, xảy ra tại Ukraina, Liên Xô cũ, ngày 26-4-1986, là sự kiện khơi mào cho nhận thức của nhân loại về sự nguy hiểm tiềm tàng của hạt nhân dân sự.

Tai nạn này là do ở những sai sót trong thiết kế nhà máy điện hạt nhân và một loạt lỗi lầm của con người, nhất là thái độ quan liêu không thể tả.

Chính lò phản ứng số 4 RBMK của Liên Xô, 1000 MW, kiểu lò nước sôi nhẹ, kiềm hãm bằng than và được làm giàu thấp với uranium, đã gánh chịu vụ nổ (không phải hạt nhân) và chảy tâm lò. Lò này, dạng trụ với đường kính là 12 m và cao 8 m, chứa 190 tấn uranium làm giàu 2%. Những điểm yếu của kiểu lò này là không có vỏ bọc (enceinte de confinement) hay mái vòm bảo vệ.

Công suất yếu, tâm lò không ổn định, nước dùng để truyền nhiệt có mặt khắp nơi, nhưng nó cũng là nguồn hấp thụ nơtron và do đó hơi nước rất là nguy hiểm và các cần điều khiển (barres de contrôle) không hoàn toàn dễ sử dụng.

Chính thao tác của một vài kĩ sư điện, không biết gì về hạt nhân, đến từ Moscow, với mục tiêu là chứng tỏ khả năng khởi động lại nhà máy cùng với động năng của turbin khi có sự cố bên ngoài về điện, là nguồn gốc gây ra thảm họa. Nguyên nhân là do sự bịt kín và sự gãy đổ các cần điều khiển đối với than kiềm chế. Chế độ siêu cấp (công suất lò phản ứng tăng lên 100 lần) gây ra một loạt các vụ cháy nổ.

Vụ nổ lớn đầu tiên là nổ hơi nước làm tung lên trời 1200 tấn bê tông phủ lò phản ứng. Vụ nổ thứ hai hoặc là do hidro, hoặc do vượt quá giới hạn và phản ứng dây chuyền xảy ra. Ngoài một lượng khổng lồ các chất phóng xạ tung vào không khí (cao hơn 3000 m); người ta ước tính rằng gần 100 kg plutonium (trên tổng số 400 kg chứa trong lò) đã lan tỏa vào môi trường lúc xảy ra vụ cháy.

Sự chảy tâm lò và các cấu trúc kim loại tạo nên một lớp corium nằm dưới lò phản ứng. Trong chất thải này có chứa 300 kg plutonium.

Theo một chuyên gia là giáo sư Vassili Nesterenko, sự lắng đọng của plutonium nóng chảy này có thể gây nên một vụ nổ nguyên tử nhiều chục năm sau đó ! Các chuyên gia của Viện hàn lâm Khoa học Belarus tính toán rằng một vụ nổ nguyên tử mạnh từ 50 đến 80 lần bom Hiroshima có thể xảy ra 2 tuần sau vụ nổ Chernobyl !

Những người vận động lobby cho giải pháp điện hạt nhân cho rằng xác suất xảy ra một tai nạn lớn như vậy (chảy tâm lò) là khoảng 1 phần triệu.

Người ta thường nhầm lẫn giữa xác suất và kì vọng toán học (espérance mathématique). Con số rất nhỏ này không thể tin được, bởi vì xác suất phụ thuộc vào rất nhiều giả thiết.

Mặt khác, phần lớn, chính con người là nguyên nhân chứ không phải máy móc! Do đó phải tính đến tần suất lỗi của con người. Đừng quên rằng chỉ trong vòng 50 năm qua mà đã xảy ra năm vụ cháy tâm lò : một ở Three Mile Island, một ở Chernobyl và ba ở Fukushima. Thế giới hiện có 437 lò, với tổng công suất là 370.500 MW.

Khái niệm về rủi ro rộng hơn khái niệm xác suất. Năm nay, nhân kỉ niệm 26 năm Chernobyl, người ta bắt đầu xây dựng một cái Sarcophage (cái quách) khổng lồ thứ 2, trị giá 1,5 tỷ euros, bao trùm lò Chernobyl, với mục đích cấm phóng xạ thóat ra ngoài trời. Thiết nghĩ, thực không có một công nghệ nào “quái lạ” như thế này.

.

Ai nghiêm trọng hơn?

Tác giả đánh giá thảm họa Fukushima nghiêm trọng hơn nhiều lần so với Tác giả đánh giá thảm họa Fukushima nghiêm trọng hơn nhiều lần so với Chernobyl

Khi so sánh mức độ nghiêm trọng giữa hai thảm họa Chernobyl và Fukushima, cũng như nhiều chuyên gia khác, tôi cho rằng thảm họa Fukushima nghiêm trọng hơn nhiều lần so với Chernobyl, bởi vì nó được gây ra bởi thiên nhiên và phức tạp hơn nhiều, tuy rằng có nhiều lỗi về thiết kế. Nó đã làm chảy tâm lò phản ứng số 1, 2, và 3 của nhà máy Fukushima 1 Daiichi và gây thấm bể chứa và đáy của một số lò (melt-out).

Thật ra, tập hợp những thanh nhiên liệu chứa trong hồ, tương đương với hai chục tâm lò, cũng có thể bị nóng chảy. Kịch bản này còn nguy hiểm hơn việc nóng chảy một tâm lò bởi vì nó không chỉ liên quan đến nhiều lò phản ứng mà còn nhiều hồ làm mát các thanh nhiên liệu phóng xạ.

Trong khi ở Chernobyl, phản ứng dây chuyền không kiểm soát được đã gây nên sự hoạt động quá mức của lò phản ứng và từ đó là nhiệt độ cao bất thường, dẫn đến vụ nổ hơi nước hoặc là hidro ; tại Fukushima, phản ứng dây chuyền được tắt một cách tự động khi xảy ra động đất, điều này hạn chế mức độ thải ra các sản phẩm của quá trình phân hạch. Điều may mắn là ở Chernobyl, tâm lò nóng chảy không thấm qua đáy lò trong khi ở Fukushima, tâm lò nóng chảy đã xuyên qua bể chứa và vỏ bọc để đi vào lòng đất.

Cũng cần biết thêm rằng ở Fukushima có 877 tấn nhiên liệu trong các lò phản ứng và 3.400 tấn nhiên liệu đã qua sử dụng nằm trong 7 hồ chứa, tổng cộng là 4.277 tấn. Để so sánh, nên nhớ rằng ở Three Mile Island con số này là 30 tấn và ở Chernobyl là 190 tấn.

Ước tính lượng chất phóng xạ thoát vào không khí ở Fukushima là 770.000 terabecquerels, tức gần 5 lần ít hơn ở Chernobyl (4 triệu terabecquerels ). Nhưng con số này không tính đến chất thải đi vào đất và nước biển, và cũng không nên quên rằng việc ô nhiễm vẫn tiếp tục ở Fukushima. Lượng cesium 137 thải vào biển nhiều hơn khoảng hai lần số lượng gây ra bởi các vụ thử bom nguyên tử ở Thái Bình Dương vào những năm 1960.

Nhưng tai họa rất nguy hiểm đối với Nhật Bản nằm ở sự ô nhiễm gây ra bởi cesium 137 đối với mặt đất, tầng dưới mặt đất, các lớp nước giếng, nói chung là cả hệ thống lưu chuyển nước ngọt. Một phần nước ngọt, mà rất khó có thể biết con số chính xác, có thể không thể dùng cho sinh hoạt và nông nghiệp được trong vòng hơn 2 thế kỉ !

Trái với Tepco vốn tìm mọi cách khẳng định rằng chỉ có sóng thần là nguyên nhân của thảm họa Fukushima, Ủy ban điều tra Nhật Bán đã đưa ra giả thuyết là đường ống chính của nhà máy điện hạt nhân đã bị hư hại nghiêm trọng, ngay trước trận động đất dữ dội (9 độ Richter) xảy ra.

.

Tham vọng vô ích

Nhân những bài học thảm họa kể trên, trở lại các kế hoạch phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam, chúng tôi tự đặt ra câu hỏi vì cớ gì Việt Nam lại muốn xây dựng một loạt tới 10 lò hạt nhân? Liệu nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận có thể trở thành một Tchernobyl khác không?

Và như tôi đã có dịp trình bày ở một số diễn đàn, tôi cho rằng chương trình điện hạt nhân của Việt Nam không những quá tham vọng mà thật là vô ích, vừa phí của, phí thì giờ, làm chậm trễ việc khai thác cấp tốc năng lượng tái tạo.

Ngoài Trung quốc, không có một nước nào xây dựng nhà máy điện hạt nhân với một tốc độ cao như thế, coi thường khía cạnh an toàn, khoa học, kinh tế, nhân sự, môi trường.

Mặt khác, nhu cầu điện lực của Việt Nam được thổi phồng từ lâu, không thực tế chút nào. Theo dự báo, Việt Nam sẽ cần 329 đến 362 TWh (tỷ kWh) năm 2020 và từ 695 TWh đến 834 TWh năm 2030.

Tôi cam đoan rằng những con số này không thể nào đạt được. Nếu cứ chạy theo mức tăng trưởng lũy thừa nhu cầu điện, 15%- 16% mỗi năm (dù sẽ hạ dần xuống 11,5% đi nữa), thì thế nào ta cũng sẽ gặp một cuộc khủng hoảng trầm trọng !

Ở Pháp hiện nay nhu cầu khoảng 500 TWh. Có kịch bản đề nghị hạ con số này xuống 360 TWh trong tương lai, với điều kiện tiết kiệm và tăng gia hiệu suất năng lượng, đồng thời sử dụng tối đa năng lượng tái tạo.

Người ta hạn chế, Việt Nam lại khuyến khích tiêu thụ. Trong lúc người ta đặt biệt chú trọng đến mô hình cầu (modèle de la demande) thì Việt Nam lại quan tâm đến mô hình cung (modèle d’offre) gây rất nhiều lãng phí. Theo đà này thì không khéo Việt Nam sẽ dư điện.

.

Làm bom nguyên tử?

Các bạn ngoại quốc hỏi tôi có phải Việt Nam muốn làm bom nguyên tử như Iran hay Triều Tiên. Tôi trả lời là nên đặt câu hỏi đó với Thủ tướng Chính phủ. Trên lý thuyết, mỗi năm 1 lò PWR 1000 MW có thể cho 200 kg tương đương plutonium. Nhưng kỹ thuật chế bom không phải dễ, cần một số điều kiện tối thiểu. Các lò RBMK của nhà máyTchernobyl, ngoài việc cung cấp điện, cũng có mục đích gia tăng lượng plutonium cho Liên xô.

Một số chuyên gia cũng nghi là Việt Nam bị một áp lực kinh tế và chính trị nào đó, nên mới câp tốc xây dựng một loạt 10 – 12 lò trong một khoảng thời gian rất ngắn (đến 2030), bất chấp nguy hiểm và những khó khăn sẽ chồng chất lên nhau, khó lường trước được.

Ninh Thuận có thể trở thành Chernobyl, không phải vì máy móc, vì lò có vỏ bọc (enceinte de confinement) nhưng vì thiếu chuẩn bị chu đáo và vì nhân viên vận hành, thiếu trình độ, kinh nghiệm hay kỷ luật. Mặc khác, vùng Ninh Thuận cũng có thể bị động đất và sóng thần. Đó là chưa nói đến sự cẩu thả có thể có của tập đoàn Rosatom (Nga) và cuộc khủng hoảng trầm trọng của công nghệ điện hạt nhân Nhật Bản !

Muốn tránh một thảm họa xảy ra ở Ninh Thuận, theo tôi dễ nhất là Việt Nam phải hủy bỏ ngay chương trình điện hạt nhân. Nếu không, Việt Nam sẽ bị phóng xạ ngàn năm ô nhiểm, làm tê liệt kinh tế lâu dài và gây bao nhiêu đau thương cho đồng bào vô tội.

.

Không đủ nhân lực

Một vấn đề khác có thể đặt ra là nhân lực. Ngân sách Viet Nam dành cho chương trình giáo dục và đào tạo chuyên viên dự tính khoảng trên 3.000 tỷ đồng. Số lượng dự kiến đến năm 2020 cả thảy là 3000 người được đào tạo.

Có ý kiến cho rằng chính quản lý của con người là một nguyên nhân của sự cố ở Fukushima

So với nhu cầu, con số này tương đối quá nhỏ. Một nhà máy điện hạt nhân 1000 MW, trung bình, cần khoảng 800 đến 1000 người đủ mọi ngành nghề, trong đó một nửa là nhân viên vận hành. Hiện nay trong nước có khoảng 500 chuyên viên trong lĩnh vực hạt nhân và số chuyên viên có kiến thức thực nghiệm kỹ thuật hạt nhân có lẽ không quá 100 người. Số chuyên gia cao cấp có kinh nghiệm về nhà máy điện hạt nhân thì rất hiếm.

Việt Nam đã bắt đầu chương trình đào tạo về khoa học công nghệ hạt nhân từ thang 6 – 2011. Mỗi năm dự kiến đào tạo ở 5-6 trường Đại học trong nước khoảng 250 sinh viên. Theo kế hoạch nhà nước, đến năm 2020 sẽ đào tạo được 350 tiến sĩ và thạc sĩ , 24.00 kỹ sư trong linh vực năng lượng hạt nhân. Riêng cho lĩnh vực quản lý, ứng dụng và an toàn hạt nhân, phải đào tạo 250 tiến sĩ và thạc sĩ, 650 kỹ sư. Hàng trăm sinh viên trong các con số trên, sẽ du hoc và tu nghiệp ở ngoại quốc

Hiện nay phần lớn các đại học Âu Châu chú trọng đến việc đào tạo chuyên viên để tháo gỡ nhà máy hơn là để xây cất.

Tháo gỡ là một kỹ thuật tương đối mới nên người ta thiếu chuyên gia có kinh nghiệm để giảng dạy. Mặc khác, một số đông giáo sư chuyên ngành hạt nhân đã nghỉ hưu.

Nếu hàng trăm triệu đô-la chúng ta phung phí trong việc đào tạo này để dành cho lĩnh vực năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng, nâng cao hiệu suất năng lượng có phải ích lợi cho đất nước và hợp thời, thì có hợp lý hơn không?

Lẽ cố nhiên, tôi hoàn toàn không tán thành việc phung phí tiền của dân để đào tạo sinh viên như thế này, vì điện hạt nhân đã lỗi thời, vô cùng nguy hiểm, không kinh tế và cũng không có chút triển vọng nào.

Chúng ta không có quyền khuyến khích thế hệ trẻ đi ngược trào lưu thế giới, mất thì giờ vàng ngọc của họ. Tôi cho rằng Việt Nam cần xét lại gấp chiến lược năng lượng dài hạn trước khi quá muộn!

_______

nguồn: BBC Vietnamese – Diễn đàn – (29/04/2012)

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2012/04/120428_forum_chernobyl_lesson.shtml

Read Full Post »

Older Posts »